Thứ Tư, 28 tháng 11, 2012
Thứ Ba, 20 tháng 11, 2012
Thứ Năm, 15 tháng 11, 2012
Thứ Ba, 13 tháng 11, 2012
Thứ Hai, 12 tháng 11, 2012
Thứ Bảy, 10 tháng 11, 2012
Thứ Năm, 8 tháng 11, 2012
Tiếng chim, Hoa bí và những tà áo trắng...
Hoàng Anh
Anh sinh năm 1952 tại Thủ Dầu Một. Nhà anh ở giữa một
vùng có nhiều vườn cây ăn trái xanh mát và hiền hoà, nhưng vắng vẻ và khá xa chợ
Thủ. Gần đó là sông Sài Gòn, trên bờ có ngôi đình Bà Lụa rất xưa và nổi tiếng
vì có đường nét kiến trúc độc đáo, phong cảnh đẹp và nên thơ.
Thưở nhỏ anh học trường sơ cấp Bà Lụa, đến lớp nhì mới học Tiểu học tại Phú Cường. Đậu vào trung học Trịnh Hoài Đức niên khoá 1964-1965, khoá 10. Ra trường năm 1971, học Sư Phạm Sài Gòn. Đến 1973 về dạy tại một ngôi trường nhỏ thuộc quận Lái Thiêu, vừa dạy vừa ghi danh học Đại Học Văn Khoa. Sau, chuyển lên dạy cấp II, III Châu Thành…
Thưở nhỏ anh học trường sơ cấp Bà Lụa, đến lớp nhì mới học Tiểu học tại Phú Cường. Đậu vào trung học Trịnh Hoài Đức niên khoá 1964-1965, khoá 10. Ra trường năm 1971, học Sư Phạm Sài Gòn. Đến 1973 về dạy tại một ngôi trường nhỏ thuộc quận Lái Thiêu, vừa dạy vừa ghi danh học Đại Học Văn Khoa. Sau, chuyển lên dạy cấp II, III Châu Thành…
Sau 75, vẫn tiếp tục nghề dạy học. Có lúc là Hiệu Trưởng trường cấp I, II Khánh Bình, Tân Uyên. Tốt nghiệp khoá I lớp Đại học Sư Phạm khoa văn tổ chức tại Bình Dương năm 1983. Về dạy tại trường Trung học Sư Phạm Sông Bé, sau đổi tên lại là Cao Đẳng Sư Phạm Bình Dương. Tại đây anh chuyên giảng dạy môn nhạc cho đến 2003 thì về đảm nhận chức vụ Phó Chủ Tịch rồi sau lên Chủ Tịch Hội Văn Học Nghệ Thuật tỉnh Bình Dương cho đến nay.
Thời trung học anh học nhạc với Thầy Nguyễn Bé Tám,
khi lên Đại Học lại được học với một vị Thầy nữa là Nguyễn Ngọc Quang tốt nghiệp
từ bên Pháp về. Có đam mê và năng khiếu về âm nhạc, nên ngoài hai vị Thầy vừa kể
anh say mê đọc nhiều sách báo để trao giồi kiến thức và khả năng sáng tác của
mình. Anh viết nhạc rất sớm, nhưng chỉ chính thức phổ biến từ sau 75. Lúc
đó nhạc của anh thường đựơc các ca sĩ địa phương trình bày trên Đài Phát Thanh
Sông Bé hoặc trong các chương trình văn nghệ quần chúng. Năm 1993, anh
sáng tác nhạc phẩm “Tiếng hát chim đa đa”, trong những lúc gặp mặt bạn bè vui vẻ,
anh tự trình bày nhạc phẩm của mình, có nhiều người đã đánh giá đây là một ca
khúc hay. Thế nhưng phải mấy năm sau, đến 1999, khi ca sĩ Quang Linh trình bày
trong một dĩa nhạc do trung tâm băng đĩa nhạc Bông Sen-Sài Gòn Video phát hành
thì bài hát này bắt đầu nổi tiếng và vang danh rộng rãi cả trong và ngoài nứơc.
Nhạc phẩm đọat giải ca khúc đựơc nhiều người ưa thích nhất của chương trình Làn
Sóng Xanh trong nhiều tháng liền. Và cái tên Võ Đông Điền từ đây đã vang xa ra
khỏi phạm vi tỉnh nhà. Cho đến nay, có thể nói Giáp Văn Thạch, với bài “Quê
Hương”, và anh, với bài “Tiếng hát chim đa đa” là hai nhạc sĩ thành công nhất
và tiêu biểu nhất trên lãnh vực âm nhạc của tỉnh Bình Dương.
Chính sự thành công đó đã khích lệ anh viết tiếp phần hai của “Tiếng hát chim đa đa”, đó là nhạc phẩm “Xin đừng trách đa đa”, năm 2000. Lần này hãng phim Bến Thành Audio-Video nhanh chóng vào cụôc, họ đưa ngay nhạc phẩm này vào dĩa video. Ở hải ngoại, những ca sĩ tiếng tăm cũng tranh nhau đưa nó lên các sân khấu hoành tráng, lộng lẫy với phần hoà âm phối khí hiện đại.
Từ đây, anh có nhiều ca khúc được sử dụng làm nhạc phẩm trong phim, như : “Ký ức một miền quê”, trong phim “Giai Điệu Quê Hương” của đạo diễn Hồ Nhân; “Xuân trên đồi bằng lăng” trong phim “Bằng lăng tím”, đạo diễn Xuân Cường; “Bóng mát cụôc đời”, phim “Có một người như thế trên đất Bình Dương”, đạo diễn Hồ Nhân…
Đến nay anh đã có gần 100 nhạc phẩm đựơc xuất bản, tuy nhiên nhắc đến Võ Đông Điền người ta nhớ đến “Tiếng hát chim đa đa” trước tiên. Nhạc phẩm có cảm hứng từ hình ảnh một cô thôn nữ láng giềng thưở tâm hồn anh còn lắm mộng mơ mà nhút nhát. Đời anh sinh ra, sống, yêu đương và sáng tác đều từ giữa những vườn măng cụt, sầu riêng thơm lừng, chim chóc líu lo sớm chiều, nên nhạc phẩm của anh, nói chung, đều mang âm hưởng của dân ca và man mác những tình tự của quê nghèo, hiền lành, giản dị mà lắng đọng bao nhiêu tình ý khó quên. Chỉ cần đọc lại mỗi tựa đề của những nhạc phẩm đã sáng tác, cũng đủ thấy rằng tâm hồn của anh đã dành hết cho đất và người Bình Dương quê hương của anh.
Chính sự thành công đó đã khích lệ anh viết tiếp phần hai của “Tiếng hát chim đa đa”, đó là nhạc phẩm “Xin đừng trách đa đa”, năm 2000. Lần này hãng phim Bến Thành Audio-Video nhanh chóng vào cụôc, họ đưa ngay nhạc phẩm này vào dĩa video. Ở hải ngoại, những ca sĩ tiếng tăm cũng tranh nhau đưa nó lên các sân khấu hoành tráng, lộng lẫy với phần hoà âm phối khí hiện đại.
Từ đây, anh có nhiều ca khúc được sử dụng làm nhạc phẩm trong phim, như : “Ký ức một miền quê”, trong phim “Giai Điệu Quê Hương” của đạo diễn Hồ Nhân; “Xuân trên đồi bằng lăng” trong phim “Bằng lăng tím”, đạo diễn Xuân Cường; “Bóng mát cụôc đời”, phim “Có một người như thế trên đất Bình Dương”, đạo diễn Hồ Nhân…
Đến nay anh đã có gần 100 nhạc phẩm đựơc xuất bản, tuy nhiên nhắc đến Võ Đông Điền người ta nhớ đến “Tiếng hát chim đa đa” trước tiên. Nhạc phẩm có cảm hứng từ hình ảnh một cô thôn nữ láng giềng thưở tâm hồn anh còn lắm mộng mơ mà nhút nhát. Đời anh sinh ra, sống, yêu đương và sáng tác đều từ giữa những vườn măng cụt, sầu riêng thơm lừng, chim chóc líu lo sớm chiều, nên nhạc phẩm của anh, nói chung, đều mang âm hưởng của dân ca và man mác những tình tự của quê nghèo, hiền lành, giản dị mà lắng đọng bao nhiêu tình ý khó quên. Chỉ cần đọc lại mỗi tựa đề của những nhạc phẩm đã sáng tác, cũng đủ thấy rằng tâm hồn của anh đã dành hết cho đất và người Bình Dương quê hương của anh.
Thời đi học, kỷ niệm làm anh nhớ nhất là những chuyến đi về trên con đường tới trường. Nhà xa, anh phải đạp xe ra đến ngã tư Phú Văn, gởi nhờ nhà một người bà con rồi mới đón xe lam. Hồi đó phần lớn học sinh THÐ đều phải trải qua cảnh này. Thẹn thùng nhất là khi phải lên những chuyến xe có nhiều nữ sinh, bọn con trai hồi đó nhát lắm, ngồi gần mấy cô thì lúng ta lúng túng đỏ cả mặt. Vậy nhưng khi đứng xa thì lại thích nhìn, thích ngắm. Có anh dù xe đậu trước trường còn trống cũng không chịu đi mà phải thả tà tà xuống chợ Búng, thầm mong đựơc nhìn thấy một cô nào đó mà mình đã để bụng nhưng không dám nói ra. Anh cũng nhớ những ngày đi bán báo trường cuối năm. Đó là cơ hội đựơc qua trường Nữ mà không sợ bị phạt, và có dịp mà ngắm giang sơn của Nữ quốc cho biết, về tha hồ mà “nổ” cho bạn bè nghe cho tụi nó thèm chơi!
Những tà áo trắng thơ mộng của tuổi học trò vẫn là những gì mà tâm hồn anh đã khắc sâu vào lòng. Hình ảnh của quê nhà êm đềm, bình dị và tình cảm thơ ngây thưở ngày xanh đã hoà quyện với nhau trong rất nhiều ca khúc của anh. Tiêu biểu có thể kể như “ Màu hoa bí ” với ca từ : “ Nhớ lúc tan trường anh cùng em bắt bướm. Bướm bay vô vườn mà nước mắt rưng rưng. Anh đền em màu hoa bí. Hoa bí vàng thay con bướm vàng nghe thương nhớ mênh mang. Nay bí trổ hoa vàng, về lại trường xưa, nay bí trổ hoa vàng. Bâng khuâng chợt nhớ sắc hoa xưa, hoa vẫn tươi màu. Mái trường xưa có là Hoàng Hạc Lâu. Biết tìm con bướm vàng giờ ở đâu?”
Về mái trường THĐ, anh có viết “Trường Xưa Kỷ Niệm”, nhạc phẩm nền cho một bộ phim nói về ngôi trường này. Một bài khác, nhẹ nhàng mà da diết yêu thương, nhung nhớ, cảm xúc khi sau nhiều năm, nữ sinh đựơc bắt đầu phải mặc áo dài trắng trở lại khi đi học. Nhìn thấy lại những tà áo trắng của một thời, lòng anh bỗng nghe bồi hồi, bâng khuâng như sống lại một thời xưa “Nhớ một thời áo trắng”:
“Ngày xưa áo trắng tan trường trên đường về chiều nghiêng sân nắng. Để cho anh ngẫn ngơ nhìn theo một tà áo trắng bay bay. Tà áo trắng năm xưa như tình đầu. Tà áo trắng bay bay trong chiều nào hồn nhiên mộng mơ và giận hờn vu vơ. Ngày nay áo trắng tan trường trên đường về chiều nghiêng sân nắng. Chợt nghe xao xuyến tâm hồn thương một thời áo trắng năm xưa. Tà áo trắng hôm nay như kỷ niệm. Gợi nhớ mãi trong tôi bao mộng đẹp. Cảm ơn màu áo trắng học trò. Áo trắng đưa tôi đi qua khung trời tình yêu…”
Bao nhiêu kỷ niệm buồn vui của thời cắp sách, và tình cảm với quê huơng từ thưở còn thơ ấu là những nguồn chất liệu chảy mãi theo tháng năm trong tâm hồn của một người Thầy, vừa là một nhạc sĩ. Chúng ta hy vọng sự nghiệp sáng tác của anh không dừng lại ở hai trăm nhạc phẩm, và hơn nữa, tin rằng trong nay mai, anh sẽ lại cho ra đời những ca khúc và giai điệu làm chúng ta yêu mến, nhớ nhung nhiều hơn…
Thứ Tư, 7 tháng 11, 2012
“Xin Đừng Trách Đa Đa”- Huyền Sử Một Loài Chim Hay Chính Mối Tình Bí Ẩn Và Huyền Hoặc Của Nhạc Sĩ Võ Đông Điền?
Mây Ngàn Phương
“Tôi đã trở về thăm mảnh đất Bình Dương thân yêu. Bên
dòng sông xanh mang theo tuổi thơ hoa bướm và cả tuổi thanh xuân chôn kín những
nỗi buồn.
Tình yêu đến với tôi như những cánh lục bình mang đầy hoa
tím trôi lênh đênh, dập dìu trên sóng nước buổi hoàng hôn...Rồi tôi ra đi, hành
trang tôi mang theo là những mảnh vở của trái tim chất chứa nhiều kỷ niệm của
quê hương...Xin đừng trách người ơi!”(MNP)*
Tôi đến viếng thăm HVHNT tỉnh Bình Dương nằm đối diện bên dòng sông Sài Gòn
vào những ngày cuối tháng 12 năm 2008. Những ngày mùa
đông khí hậu Bình Dương thật ấm áp. Những cơn gió từ dòng sông thổi vào mát
rượi và làm rung động, xao xuyến những hàng cây trồng dọc ven bờ. Bình Dương
thay đổi nhiều quá! Và khi tôi trở về,
tôi đã trở thành người lạ .
Người tôi gặp đầu tiên là nhà thơ Trần Bình Dương. Đôi mắt anh sáng lên khi
nhìn thấy tôi. Anh hỏi “Em về bao giờ? Bao giờ
đi?” Tôi ngồi xuống bên cạnh và đáp “Em sẽ đi sau Noel.” Trần Bình Dương
chưng hửng hỏi “Uả, sao đi sớm vậy. Ở lại ăn Tết với tụi anh nữa chớ.” Tôi cười
và lắc đầu “Em không có ngày phép lâu hơn hai tuần”. Trông anh già, gầy, xanh
xao hơn bảy năm trước. Tôi hỏi thăm anh được vài câu và thấy anh đang ngồi bên
quán cóc bên đường uống cà phê với bạn bè nên tôi phải vào trong văn phòng của
HVHNT. Tôi vẫn nhớ cái nghèo của chúng tôi, cái nghèo đã đưa đẩy chúng tôi trở
thành bạn bè văn nghệ. Tôi vẫn thương mến qúy anh như ngày xưa. Tôi không biết
anh đang bị bịnh nặng. Và năm nay, vào ngày 8 tháng 4 năm 2010, tình cờ lên
mạng, tôi đọc được bài thơ Chu Ngạn Thư đăng trên báo điện tử VCV khóc anh làm
tim tôi đập hụt một nhịp vì đau đớn. Vậy là Châu đã vĩnh viễn bỏ chúng tôi ra
đi. Còn đâu lời hẹn trở về thăm Châu. Khi anh Võ Đông Điền cho tôi biết tin anh
bệnh thì tôi lại ngại đến nhà viếng thăm vì sợ làm phiền.
Tôi xuất hiện bất ngờ khiến anh Võ Đông Điền ngỡ ngàng. Anh buông tờ báo
xuống, khuôn mặt rạng rỡ nụ cười. Giọng nói miền Nam, quen thuộc, ấm áp của anh
rót vào tai tôi: “Em về hồi nào vậy?”. Tôi đáp: “Tối thứ sáu vừa qua. Anh vẫn
như xưa, không già đi và không bao giờ thay đổi.” Anh hỏi tiếp: “Chừng nào em
đi? Em có ở lại ăn Tết với tụi anh không”. Tôi cười cười đáp: “Em chỉ có 2 tuần
nghĩ phép thôi. Em sẽ đi sau Noel.” Anh lại hỏi: “Sao em đi sớm vậy?”. Giọng
nói Anh cảm động và rất vui. Tôi cũng mừng rỡ khi gặp anh và nhiều văn nghệ sĩ
như nhà thơ họ Lê, nhà thơ Nguyễn Công
Dinh, nhà biên khảo Nguyễn Hữu Học, nhạc sĩ Phan Hữu Lý , Ca sĩ Thăng Long nhà thơ
Tiến Đường, nhà văn Phan Hai, Thảo Đường, Phạm Hùng, Huỳnh Bạch Yến, anh Tư
Phúc... Tất cả các anh chị là những người bạn tâm giao của tôi hơn 30 năm. Tôi
vẫn còn giữ mãi những ấn tượng tốt đẹp về các văn nghệ sĩ đã cùng tôi chia sẻ
vui buồn trong những ngày tháng long đong đầy khổ hạnh.
Nhạc sĩ Võ Đông Điền vẫn như xưa dù chúng tôi xa nhau hơn 20 năm. Anh và
tôi dạy chung một trường. Anh là giáo sư âm nhạc, còn tôi dạy văn. Anh giản dị,
hiền hậu, ít nói. Trên khuôn mặt thầm lặng của anh chỉ có đôi mắt trầm tư, buồn
buồn, đa cảm như ẩn chứa một vùng trời mênh mông của cây trái, sông nước Bình
Dương. Đôi mắt đó như nói với tôi tất cả những nốt nhạc mà anh đã gởi vào từng
ca khúc. Ngày tôi rời Việt Nam không ai hay biết và ngày tôi về cũng không
ai hay. Tôi ra đi âm thầm và trở về cũng âm thầm không ồn ào. Tôi như một chiếc
bóng lặng lẽ đến và đi. Bạn bè cũ gặp lại nói rằng tôi vẫn giản dị như ngày
xưa.
Sau hơn 20 năm, tôi chỉ gặp nhạc sĩ Võ Đông Điền hai lần. Lần đầu tiên năm
2001, tôi gặp anh trong phòng văn nghệ và ôm vai anh trong một phút để nói vài
lời từ biệt. Tôi thoáng thấy đôi mắt anh ngỡ ngàng, vui vui rồi lắng đọng lại
đó một câu hỏi? Ai đây? Anh đang tham dự một cuộc họp nên tôi ra về. Tôi nghĩ
anh không còn nhận ra tôi.
Đây là lần thứ nhì, tôi gặp lại anh. Hai anh em ngồi kể chuyện cho nhau
nghe. Anh rất ít nói, ai nói gì anh chỉ lắng nghe và cười. Tôi kể cho anh nghe
những ngày sống xa quê hương. Mỗi khi nghe ai hát bài “Quê Hương” tôi lại nhớ
nhạc sĩ Giáp Văn Thạch và người bạn gái của tôi (người yêu anh). Khi nghe ai
bài hát “Xin Đừng Trách Đa Đa” tôi lại nhớ đến Võ Đông Điền. Tôi nhớ bạn bè,
nhớ quê hương Bình Dương tha thiết. Tôi hỏi anh: “Anh sáng tác bản nhạc “Xin
Đừng Trách Đa Đa” vào lúc nào vậy?”. Anh nói đùa một câu: “Em đi mấy năm sau
thì anh nhớ em nên sáng tác bài hát nầy. Vậy có vừa lòng chưa?”. Tôi cười vì
biết anh chỉ nói đùa. Tôi lại hỏi anh: “Lần trước em trở về Việt Nam chắc anh
không nhận ra? Anh còn nhớ em mặc áo gì không?” Anh đáp: “Nhớ chứ. Em mặc bộ đồ
đen. Khi anh họp xong, anh đi tìm em thì em đã biến mất”. Anh lấy trong tủ ra
hai cái diã DVD tặng tôi: “Quê Hương Những Khúc Tình Ca” gồm có 12 bản nhạc
chọn lọc, và “Cánh Hoa Bay” gồm 8 bài ca cổ nhạc. Anh giỏi cả tân nhạc và cổ
nhạc. Anh cũng như tôi yêu bài hát Quê Hương và Cánh Hoa Dầu của nhạc sĩ Giáp
Văn Thạch. Anh cho tôi biết anh sáng tác bài hát “Xin Đừng Trách Đa Đa” vào
tháng 9 năm 1993. Đúng hai năm, sau khi tôi rời khỏi Việt Nam. Tôi rời Việt Nam
vào ngày 19 tháng 9 năm 1991 và ngày cưới của tôi vào tháng 9 năm 1993. Tháng 9
tôi lên xe hoa rời bỏ cuộc sống cô đơn. Tôi nghĩ đây chỉ là sự trùng hợp ngẫu
nhiên. Bài hát ra đời chỉ được phổ biến trong tỉnh và thỉnh thoảng được phổ
biến trên đài phát thanh của tỉnh Bình Dương. Mãi đến năm 1999 bài hát nầy mới
nổi tiếng và được nhiều người biết đến khi được ca sĩ hải ngoại trình diễn.
Nhạc sĩ Võ Đông Điền sinh năm 1952 tại xã Phú Thọ, Thị Xã Thủ Dầu Một, Bình
Dương, Việt Nam. Anh là giáo sư Âm Nhạc trường Cao Đẳng Sư Phạm Bình Dương. Anh
sáng tác hơn 100 ca khúc dành cho người lớn và trẻ em. Anh say mê tân nhạc
nhưng cũng rất ghiền cổ nhạc nên cũng dành thời gian viết hơn 40 bài hát cổ
nhạc được giới ca cổ rất yêu thích. Những năm gần đây, những hảng phim truyện
Việt Nam vẫn mời anh viết ca khúc cho phim như bài hát: “Ký Ức Một Miền Quê”,
“Xuân Trên Đồi Bằng Lăng”, “Bóng Mát Cuộc Đời”, “Em Tôi”, “Bến Mơ”... Tất cả
những ca khúc của anh ngân nga như những bài ca dao, dân ca đưa chúng ta trở về
quê hương Việt Nam yêu dấu trong vòng tay của mẹ hiền, bên chiếc võng đong đưa
lời ru ngọt ngào, êm đềm của mẹ, trong cánh diều bay vun vút trời xanh, trong
cánh hoa bằng lăng tím ngát, hay bên dòng sông muôn đời hiền hoà có dòng nước
trôi xuôi, có con đò đưa khách sang sông. Và chúng ta có thể tìm nơi những ca
khúc của anh tình yêu quê hương đất nước, tình yêu con người nở hoa bất tận.
Đặc biệt, tình yêu trai gái là đề tài thật lãng mạn, thật đẹp và thơ mộng luôn ẩn
hiện trong suốt những dòng nhạc sâu lắng dịu dàng và tha thiết của người nhạc
sĩ miền sông nước mênh mông như bài hát “Bất Chợt Ta Nhìn Nhau”:
“Bất chợt em nhìn anh, lắng nghe từng kỷ niệm. Bất chợt
anh nhìn em, nhớ những ngày xa xưa. Ta quen nhau, ta yêu nhau, ta xa nhau chẳng
nhớ độ nào. Dòng sông xanh đã trôi đi theo tháng năm âm thầm sóng vỗ. Tuổi ngây
thơ đã trôi đi theo ước mơ, có chăng là nỗi nhớ, nhớ...”
Nhịp đi của nhạc biến hoá tài tình ở đoạn cuối phần một của từ “nhớ...” Từ
điệu Slow Surt, nốt Fa kéo dài đến La, chuyển tiếp đến Si và cao vút, ngân nga
đến Đô...(Tacet).
Tình yêu đó đã trở thành dĩ dãng xa xuôi, có chăng chỉ còn là kỷ niệm không
bao giờ tìm lại được. Em yêu ơi! Dòng đời đầy ghềnh thác, biết bao nhiêu chông
gai, cay đắng lỡ làng. Ngỡ rằng tình xưa như một giấc mơ nhưng tôi đã gặp lại
em, ánh mắt xưa ngập tràn bao nhung nhớ, và trái tim nhạc sĩ thổn thức:“ ...Tình
yêu xưa ngỡ phôi phai như giấc mơ, cung đàn đã lỡ. Đập gương xưa có thấy đâu trong
bóng gương...vỡ tan lỡ làng...Tình cờ gặp nhau đây, tưởng rằng phôi phai, buâng
khuâng người em gái....” Và niềm hối tiếc sâu xa đã tràn ngập hồn người
nhạc sĩ đa tình. Anh viết: “Sao không như ngày ấy, ngày em tròn hai mươi
tuổi. Sao không như ngày ầy, để anh mãi còn đôi mươi”. Ai cũng có tình yêu
và trong mỗi chúng ta ai cũng có những mối tình dang dỡ. Do đó, bài hát làm
rung động người nghe vì nó đã khái quát được những cuộc tình thơ ngây, lãng
mãn, nhưng cuối cùng chia ly và đầy hối tiếc.
Trong DVD có 12 ca khúc, phần lớn được các ca sĩ trong nước và hải ngoại
hát trong chương trình Thúy Nga Paribynight như “ Tiếng Hát Chim Đa Đa, Xin
Đừng Trách Đa Đa, Bất Chợt Ta Nhìn Nhau, Em Tôi...” Với giọng ca truyền cảm, ca
sĩ Quang Linh đã trình diễn xuất sắc
những ca khúc của nhạs sĩ Võ Đông Điền. Ca sĩ Tâm Đoan với “Đêm Giao Thừa Nghe
Một Khúc Dân Ca”, Hương Lan trong nhạc phẩm “Bình Dương Một Khúc Tình Quê”,
Hoàng Lan trong bài “Người Đẹp Bình Dương”, Cẩm Ly với hát bài “Những Cánh Diều
Quê Hương”, Trung Hậu trong bải “Nhớ Quê”, đôi song ca Trọng Phúc và Hà My đã
trình bày bài “Mưa Xuân” thơ Nguyễn Bính, nhạc Võ Đông Điền và “Bình Dương
Hương Sắc Dịu Dàng” do Trọng Phúc và Hạnh Nguyên trình bày.
Nhạc sĩ Võ Đông Điền và nhạc sĩ Giáp Văn Thạch sinh ra và lớn lên ở Bình
Dương, nên tình yêu của anh dành cho mảnh đất trái ngọt cây lành, nên thơ và
hiền hoà nầy một tình cảm sâu đậm. Trong tuyển tập nhạc anh ký tặng cho tôi do
nhà xuất bản Trẻ Sài Gòn ấn hành có tất cả 40 ca khúc, có bốn bài hát mang tên
Bình Dương: Người Đẹp Bình Dương, Bình Dương Hương Sắc Dịu Dàng, Bình Dương Một
Khúc Tình Quê, Trăng Bình Dương. Và trong DVD có 12 ca khúc, đã có 3 bài hát
mang tên Bình Dương. Ngay cả trong những bài hát khác, lời ca cũng mang hình
bóng Người Đẹp Bình Dương như bài “Miền Đất Tôi Yêu”: “Tôi yêu Bình Dương,
chẳng biết yêu thuở nào. Tôi yêu Bình Dương, yêu từng góc phố không tên. Một
dòng sông mênh mông sông nước. Một con đò đưa khách sang sông...”.
Trong hàng trăm ca khúc anh viết, bài hát “Xin Đừng Trách Đa Đa” đã gây một
tiếng vang lớn trong và ngoài nước. Nó đã đưa tên tuổi anh lên vị trí xứng đáng
với tài năng của anh trong dòng âm nhạc Việt Nam.Tại sao? Bài hát như một huyền
sử về một loài chim xuất hiện trong dòng văn học, ca dao, dân ca Việt Nam. Một loài
chim ít ai biết đến. Tôi chưa bao giờ thấy và biết đến con chim Đa Đa, cho dù,
tôi đã sống cả tuổi thơ trên dòng sông Sài Gòn tỉnh Bình Dương. Con chim Đa Đa
chỉ có trong ca dao, dân ca miền Nam mà tôi thường nghe mẹ tôi hát từ thuở ấu
thơ: “Chim Đa Đa đậu nhánh Đa Đa. Chồng gần không lấy lại lấy chồng xa. Mai
sau cha yếu mẹ già. Chén cơm đôi đủa, chén cà ai bưng (dâng)”. Nhạc sĩ Võ
Đông Điền đang gởi gấm tâm tư và trái tim cho ai? Nếu bài hát chỉ nói về tình
yêu trai gái trong luỹ tre làng thì nó không có giá trị phổ quát, gây ấn tượng
sâu đậm cho những người xa xứ có thân phận lạc loài. Nó cũng chỉ làm một trong
những bài hát đơn giản nói về tình yêu trai mà tôi sẽ quên nhanh như bao nhiêu
bài hát khác. Tôi là người đã bỏ xứ ra đi khi tuổi còn xuân, lứa tuổi cần tình
yêu và đang yêu. Nhưng tôi đã không còn dám yêu ai. Tôi rời khỏi Việt Nam và
lấy chồng xứ lạ. Tôi là một trong những người thấm thía và hiểu sâu sắc bài ca
anh viết. Nhưng cho đến nay, tôi cũng không thể nào hiểu được người con gái nào
đi vào hồn anh sâu lắng đã khiến những nốt nhạc kia chơi vơi, buồn bả và xót
xa: “Rồi con chim đa đa ngẩn ngơ đứng trông về chốn xa. Còn âm vang câu ca
ngày em bước chân đi theo chồng...Nhìn mây trôi mênh mông nơi quê chồng em còn
buồn không?..”. Câu hát vừa hờn trách vừa dịu dàng và đầy lòng vị tha. Anh
hỏi người con gái anh yêu rằng em lấy chồng nơi quê người em còn buồn như xưa
hay em đang vui duyên mới trong số phận ly hương? Câu hỏi như xoáy vào tâm hồn
những ai rời bỏ quê hương để lấy chồng xa xứ. Anh trách sao người con gái vô
tình và tại sao không lấy chồng gần mà lại lấy chồng xa, để “chim bay biển Bắc,
anh tìm biển Nam”. Và anh lại trách vì sao tình đôi ta phải chia lìa “...Ai
làm. Ai làm cho hạt mưa tuôn. Ướt con bướm vàng khi đậu nhánh mù u. Chim chuyền
nhành ớt, nhành dâu, lấy chồng xa xứ biết đâu mà tìm..” Giọt mưa sa hay
nước mắt của người con gái rời khỏi quê hương đã làm ướt đôi cánh của con bướm
vàng đậu nhánh mù u.
Bản nhạc gợi hồn người xa xứ, như một bài ca dao, dân ca mang âm điệu buồn
quyến rũ, êm ả ru ta vào cõi bềnh bồng của những mối tình câm lặng, tan vỡ, đầy
hoài niệm và nhân bản.
Lời hát sau cùng đã lập lại tựa đề bài hát chứa chan tình người “Xin em
Đừng Trách Đa Đa, xin em đừng trách Đa Đa...”. Đó là những lời an ủi, chia
sẻ, cảm thông “xin đừng trách người đi...vì đâu...vì đâu em ra đi!? Nhạc sĩ Võ
Đông Điền đã viết bài hát nầy cho ai? Cho một người tình? Một cô bé hàng xóm đã
có tuổi thơ và một thời hoa mộng bên lũy tre làng hay một bóng hồng nào mà anh
đã yêu thầm lặng? Con chim Đa Đa chỉ là một huyền sử. Có chăng nó chỉ tượng
trưng cho mối tình bí ẩn và huyền hoặc mà người nhạc sĩ đa tình đã chôn sâu vào
tận đáy lòng.
Maryland, 23 tháng 2 năm 2009
(Viết với niềm thương nhớ quê nhà)
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)