Dương Hoàng Lộc
Sách Sơ thảo Phật giáo Bình Dương
nhận định: “Phật giáo có mặt trên vùng đất Bình Dương từ thế kỷ XVII. Các
thiền sư đã khai lập và phát triển Phật giáo từ những ngày đầu cùng đoàn di dân
lập nghiệp. Phật giáo đã góp phần không nhỏ vào sự nghiệp xây dựng vùng đất mới
này, và đã tạo nên một sắc thái đặc thù giữa đạo Phật và dân tộc, một bản sắc
văn hóa thuần túy từ văn thơ, hội họa, lễ nghi, kiến trúc, góp phần tạo nên một
bức tranh phong phú tươi đẹp cho vùng đất Bình Dương hôm nay”[1]..Xưa cũng
như nay, Phật giáo đã đóng góp trong việc xây dựng và phát triển vùng đất Bình
Dương ở nhiều lĩnh vực, trong đó có văn học. Văn học dân gian Phật giáo tỉnh
Bình Dương là một di sản trong kho tàng văn hóa của địa phương. Việc tìm hiểu
vấn đề này có ý nghĩa quan trọng, góp phần hiểu hơn mối quan hệ giữa Phật giáo
với tiến trình lịch sử cũng như bối cảnh văn hóa-xã hội của Bình Dương trong
quá khứ lẫn hiện tại.
I. Mối quan hệ giữa Phật giáo và văn
học dân gian
Phật giáo và văn học có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau. Phật giáo dùng văn học để chuyển tải hệ tư tưởng của mình
trong việc truyền đạo, ca ngợi, miêu tả phong cảnh chùa chiền,…Đồng thời, cũng
nhờ đó mà văn học đa dạng nội dung, tư tưởng và nghệ thuật thể hiện. Với văn
học Việt Nam, Phật giáo tạo nên dấu ấn ở hai mảng văn học dân gian và văn học
viết. Vì khi du nhập vào nước ta, Phật giáo một mặt đã thâm nhập sâu sắc vào
quần chúng nhân dân, mặt khác lại ảnh hưởng đến những tầng lớp trên của xã hội,
đặc biệt là trí thức phong kiến. Ngay từ buổi đầu du nhập và cả khi Phật giáo
không còn là hệ tư tưởng chính của các triều đại phong kiến Việt Nam, tôn giáo
này đã nhanh chóng hòa cùng đời sống làng xã Việt Nam. Trong văn học dân gian,
hình ảnh ông Bụt thường xuyên hiện ra giúp đỡ những người hiền lành bị yếu thế
đã cho thấy Phật giáo trong tâm thức của người bình dân Việt Nam có một vị trí
nhất định.
Văn học dân gian là những sáng tác
của người bình dân, tồn tại và phát triển trong đời sống dân gian, thông qua
phương thức truyền miệng. Mảng văn học này được phân thành hai bộ phận chính:
Văn vần (ca dao, dân ca, hò, vè, hát ru, nói thơ, tục ngữ, thành ngữ, câu đố,…)
và văn xuôi (thần thoại, truyện cổ tích, truyền thuyết, truyện cười,…). Các chủ
đề của văn học dân gian Việt Nam thường gồm: Sự ca ngợi vẻ đẹp quê hương đất
nước, truyền thống lịch sử của dân tộc, miêu tả về đời sống xã hội, kinh tế,
tình yêu đôi lứa,…của người bình dân. Đặc biệt, trong nội dung của văn học dân
gian xuất hiện yếu tố tôn giáo, đặc biệt là Phật giáo. Qua đó, người đọc phần
nào thấy được quá trình du nhập của Phật giáo, hành trạng, lai lịch của các vị
tổ sư, về lịch sử hình thành các ngôi chùa, tư tưởng, triết lý nhà Phật, nghi
lễ Phật giáo và có cả những nhận định của người dân về tôn giáo này…. Văn học dân gian Phật giáo có thể được hiểu là các sáng
tác dân gian mà nội dung chính có đề cập đến đạo Phật. Tác giả của nó không hẳn
là các nhà sư, tín đồ phật tử mà còn bao gồm nhiều tầng lớp bình dân khác nhau
trong xã hội. Vì thế, việc tìm hiểu vấn đề này không dừng lại trong phạm vi nhà
chùa, trong giới tăng ni phật tử mà còn bao gồm một môi trường xã hội bên
ngoài.
Để làm rõ hơn mối quan hệ giữa Phật
giáo với văn hóa, văn học dân gian, chúng tôi muốn nhắc đến khái niệm tôn giáo
dân gian. Don Yonder, dựa trên những phân tích về các
quan điểm của các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, nghiên cứu tôn giáo và các
quan điểm xã hội học, đã đưa ra định nghĩa: “Tôn giáo dân gian là tổng
thể của tất cả các quan điểm và các thực hành tôn giáo tồn tại trong nhân dân,
song hành và khác với các dạng thức mang tính nghi lễ và thần học chặt chẽ của
tôn giáo chính thức” [2]. Từ kết quả nghiên cứu Thiên Chúa giáo, tác giả
nhận định: “quan niệm của mọi người về Thiên Chúa giáo thường khác một cách
căn bản so với những cái mô tả của giáo phái chính thức do các tu sĩ giảng”.
Vậy, khái niệm tôn giáo dân gian có phù hợp với Phật giáo hay không? Đạo Phật
là một tôn giáo có tính linh hoạt cao với tinh thần “tùy duyên hóa độ”.
Do vậy, khi truyền sang nhiều quốc gia, những tu sĩ Phật giáo theo tinh thần
này mà vận dụng giáo lý nhà Phật sao cho phù hợp với nhận thức và hiểu biết của
người dân sở tại, truyền thống văn hóa và các đặc điểm kinh tế-xã hội ở từng
địa phương, quốc gia. Nhà Phật gọi đây là khế lý, khế cơ. Mặt khác, khi tiếp
nhận Phật giáo, dân gian có cách hiểu và quan niệm riêng theo cách hiểu của họ.
Hai mặt này góp phần dẫn đến việc hình thành các đặc trưng văn hóa Phật giáo ở
từng quốc gia, từng dân tộc-nơi mà Phật giáo đã thâm nhập, ảnh hưởng. Với người
nông dân Việt Nam, Phật giáo còn được xem là tôn giáo dân gian. Bởi vì, tôn
giáo này đã hòa quyện chặt chẽ vào đời sống của người nông dân Việt Nam qua câu
“đất vua, chùa làng, phong cảnh bụt” và có những sắc thái riêng biệt,
khác với ở Ấn Độ-quê hương của Phật giáo. Chẳng hạn như trong Folklore Việt
Nam, không phải là không có truyện kể về sự tích các vị Phật. Chỉ có điều, đó
đều là những vị Phật bản địa như Phật Mẫu Man Nương, Phật Bà Quan Âm (Quan Âm
Thị Kính, Quan Âm Nam Hải). Điều đặc biệt ở đây là các vị Phật bản địa đều mang
giới tính nữ trong khi đạo Phật gốc vốn không có Phật Bà. Sự khác biệt này là
kết quả của sự dung hợp tín ngưỡng dân gian thờ Mẫu, tôn sùng phụ nữ trong văn
hóa truyền thống của Việt Nam với một tôn giáo ngoại lai [4]. Ngoài
ra, là tôn giáo dân gian- một thành tố quan trọng của folklore và có tính
nguyên hợp, nên Phật giáo đã ảnh hưởng, thâm nhập, tích hợp với nhiều lĩnh vực
thuộc văn hóa dân gian, đặc biệt càng không thể thiếu văn học dân gian. Do vậy,
trong nội dung của văn học dân gian xuất hiện tư tưởng triết lý nhà Phật về
thiện ác, luân hồi và nhân quả báo ứng,…
II. Một số nội dung chính của
văn học dân gian Phật giáo ở Bình Dương
Như vậy, văn học dân gian Phật giáo
tỉnh Bình Dương có những nội dung chính gì? Đồng thời từ đó phải chăng thế hệ
sau có thể hiểu biết được phần nào về đạo Phật cũng như ảnh hưởng của tôn giáo
này đến đời sống văn hóa, lịch sử và xã hội ở đây khi trước? Những nội dung mà
chúng tôi phân tích sau đây phần nào trả lời những vấn đề đã nêu.
II.1. Phật giáo đã đồng
cam cộng khổ với cuộc sống của người dân Bình Dương ngay từ buổi đầu khẩn hoang
lập nghiệp
Không hẳn trong phạm vi giới Phật
giáo, người dân Bình Dương đến nay còn truyền miệng Sự tích Tổ Bưng Đĩa. Tổ
Bưng Đĩa chính là nhà sư Đạo Trung-Thiện Hiếu, người sáng lập chùa Long Hưng
(dân gian còn gọi đây là chùa Bưng Đĩa) nay thuộc xã Tân Định, huyện Bến Cát,
tỉnh Bình Dương. Câu chuyện này như sau:
Sự tích Tổ
Bưng Đĩa
“Tương truyền rằng, Thiền sư Đạo Trung-Thiện Hiếu là vị cao tăng thuộc thế
hệ thứ 38 của thiền phái Lâm Tế. Ngài từ chùa Hội Sơn ở Thủ Đức đi hoằng hóa
đạo pháp ở nhiều nơi. Ngài có công khai lập chùa Linh Sơn ở núi Điện Bà Tây
Ninh. Lúc này, bà thường hiện ra thành các cô gái đẹp trêu chọc, quyến rũ
nhiều vị thiền sư đến đây tu hành. Khi tổ đến đây, như thường lệ, Bà hiện ra
trêu chọc nhưng được tổ cảm hóa, nguyện qui y theo Phật pháp và sẽ không quấy
phá các bậc tu hành nữa. Từ chùa Linh Sơn, Tổ Đạo Trung-Thiện Hiếu lần
bước về vùng Thới Hòa-Bến Cát. Thấy cảnh thanh tịnh, đồng ruộng thoáng mát nên
ngài đã dừng chân tới nghĩ ở dưới gốc cây trâm ven bưng. Vùng này tuy đất đai
phì nhiêu nhưng rất nhiều đĩa khiến người dân không thể trồng trọt gì được,
đồng ruộng bỏ hoang. Thấy có một vị thiền sư vân du đến, dân làng mến mộ lập am
tranh cho sư tá túc và cầu mong nhà sư chú nguyện đem đến sự bình an cho cuộc
sống. Vì thấy đĩa quá nhiều khiến cho cuộc sống người dân khốn đốn, Tổ Đạo
Trung-Thiện Hiếu bèn phát nguyện:”Nếu các loài đĩa đói do nghiệp chướng chưa
được vãng sanh thì bây giờ sớm giác ngộ vãng sanh và nếu cần, ta nguyện hiến
xác thân này cho loài đĩa ở đây và chỉ mong cho dân chúng được bình yên cày
cấy”. Nói rồi, sư bèn trầm mình xuống bưng. Khi ngài ngồi dưới bưng chú nguyện
thì có rất nhiều đĩa quay quanh. Bỗng nhiên có con đĩa thật to màu trắng bò
thẳng lên đầu, nhưng sư vẫn an nhiên thiền định. Lát sau, con đĩa này và tất cả
các đĩa khác ngã lăn ra chết. Từ đây, vùng này không còn các loài đĩa. Dân
chúng dễ dàng cày cấy, trồng trọt hơn trước, đời sống được sung túc. Vì vậy,
người dân còn gọi Tổ Đạo Trung- Thiện Hiếu là Tổ Bưng Đĩa.” [5]
Thuở xưa, vùng đất Nam bộ nói chung
và Bình Dương nói riêng là nơi hoang vu, khắc nghiệt, thú dữ hoành hành, bệnh
tật tràn lan,…Do vậy, Phật giáo muốn gắn bó với lưu dân khẩn hoang thì bắt buộc
phải nhập cuộc, cùng nhau chia sẻ những khó khăn, hoạn nạn với họ. Tổ Đạo
Trung-Thiện Hiếu đã thấy được yêu cầu đó, nên sư mới phát nguyện sẵn sàng xả
thân phụng sự chúng sanh. Điều này đã góp phần hình thành mối quan hệ sâu sắc,
bền chặt giữa Phật giáo với người dân ngay từ buổi ban đầu. Sự tích này còn cho
thấy tấm lòng ngưỡng mộ, cảm mến ân đức của dân làng Tân Định, huyện Bến Cát,
tỉnh Bình Dương đối với nhà sư có tấm lòng từ bi, can đảm, không màng đến thân
mình để hiến cho loài đĩa đói, chỉ mong sao cho người dân đi bớt khổ cực. Theo
quan niệm của đạo Phật, hành động của sư là noi theo gương phật, bồ tát mà phát
đại nguyện vì lợi ích chúng sinh. Ai muốn thực hiện hạnh bồ tát thì phải bố thí
ba la mật. Trong kinh Đại Bồ tát tạng ghi: “Vì chứng đắc vô thượng bồ đề, bồ
tát thực hành bố thí ba la mật, nên được mười điều lợi ích đáng khen ngợi”
[6]. Đặc biệt, trong mười điều lợi ích đó thì có: “Nhờ bố thí máu thịt, bồ
tát được đầy đủ tất cả thân mạng bền vững, bảo hộ, nuôi dưỡng thiện căn chân
thật cho tất cả chúng sinh” [7].Cho nên, việc làm của ngài có ý nghĩa gieo
duyên, tạo niềm tin, lòng hướng thiện và sự mầu nhiệm của đạo Phật vào lòng
người dân. Giai thoại cũng cho thấy, sự xuất hiện một thiền sư từ phương xa đến
là một vinh dự lớn của dân làng, thông qua việc dựng am tranh cho sư làm nơi tu
hành và tin rằng ngài sẽ mang đến sự an lành cho họ. Trong bối cảnh khẩn hoang
còn nhiều thách thức và trở ngại, nhu cầu tâm linh của lưu dân là rất lớn, đặc
biệt rất cần sự hiện diện của các nhà sư. Tương tự, trong sách Góp phần tìm
hiểu Phật giáo Nam bộ, Trần Hồng Liên cho biết: “Trong bối cảnh xã hội của
buổi đầu đi khai hoang, nhà ở còn tạm bợ, cuộc sống lại đầy bất trắc, khí hậu
phong thổ chưa phù hợp, bệnh tật và cái chết luôn đe dọa cư dân…Được nghe
thuyết giảng về một ít giáo lý nhà Phật, được nghe tiêng kinh đọc tụng, họ cảm
thấy ấm áp và an tâm hơn” [8]. Ngoài hình ảnh nhà sư Đạo Trung-Thiện Hiếu ở
Bình Dương, ở vùng đất Nam bộ, trong buổi đầu khẩn hoang với bao trắc trở, còn
nhiều tấm gương của các nhà sư sẵn sàng xả thân cứu dân. Nhà nghiên cứu Sơn Nam
cho biết thêm: “Đại Nam nhất thống chí ghi chép về tỉnh Gia Định đã nhắc đến
ngày tết năm Canh Dần (1770), ở chợ Tân Kiểng (ngay bên đường Trần Hưng Đạo,
quận 5), cọp dữ đến quấy rối, quân đội ở gần không can thiệp được, may thay có
ông Tăng Ân đi ngang, ra sức dùng côn đánh cọp, cọp chui vào bụi tre. Ông bị tử
thương, đồ đệ là Trí Năng giết được cọp, bấy giờ đã xây ngôi tháp lưu niệm. Lại
chép chuyện ông Viên Ngộ ở Cần Giuộc, đầu năm Gia Long đã qui y. Với quyết tâm
lớn, ông quyết định tích cực khẩn hoang tại vùng Thanh Ba (quê vợ ông Đồ
Chiểu), cọp chặn đường, nhưng ông và dân trong xóm vẫn tiếp tục mở được hai con
lộ giúp dân tới lui buôn bán. Ông lập chùa Tôn Thạnh, đúc tượng Địa Tạng cầm
kinh mật niệm giúp đồng bào thoát cơn bệnh dịch, rồi ông nguyện suốt đời tịch
cốc” [9]. Như vậy, các tư liệu trên phần nào cho thấy Phật giáo đã nhập thế
“hết mình” với tinh thần đồng cam cộng khổ, giúp đỡ người dân ổn định
cuộc sống ở vùng đồng bằng Nam bộ khi xưa. Đồng thời, đây là nguyên nhân quan
trọng góp phần giải thích tại sao đạo Phật lại bén rễ sâu và có ảnh hưởng lớn
đến văn hóa, xã hội của người dân ở đây. Không dừng lại ở đó, Sự tích Tổ Bưng
Đĩa còn phản ánh mối quan hệ giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian. Ở Việt Nam,
do văn hóa mang tính dung hợp, Phật giáo và các hình thức tín ngưỡng dân gian
thâm nhập qua lại, nhưng Phật giáo luôn ở vị trí cao hơn tín ngưỡng dân gian và
Đạo giáo. Câu chuyện Phật Bà Quan Âm hòa giải cuộc chiến ở Sòng Sơn giữa các
đạo sĩ của phái Nội đạo và Mẫu Liễu Hạnh, rồi sau đó còn qui y cho Mẫu Liễu đã
thể hiện điều đó. Việc Tổ Đạo Trung-Thiện Hiếu đã cảm hóa và qui y Linh Sơn Thánh
Mẫu có cùng ý nghĩa trên. Ngoài ra, thông qua truyện này cho biết con
đường truyền đạo của sư đi từ vùng Thủ Đức lên Tây Ninh rồi xuống Bình Dương.
Điều này góp phần cho việc hình dung con đường truyền bá Phật giáo ở vùng Đông
Nam bộ trước đây và con đường đó không mấy dễ dàng đối với các vị thiền sư khi
trước. Ngoài ra, cùng với các vị thiền sư là những cư sĩ Phật giáo hết lòng
đóng góp, giúp đỡ người dân và gieo duyên Phật pháp ở những nơi còn thưa thớt,
khó khăn. Câu chuyện sau thể hiện điều đó:
Sự tích chùa Bình Đông
“Năm 1853, cư sĩ Nguyễn Văn Lợi
cùng người bạn của mình là Huỳnh Công Nhẫn vân du đến một vùng đất còn khá
hoang sơ thuộc huyện Thuận An ngày nay. Sau này, nơi đây được đặt tên là làng Vĩnh
Phú, nay là xã Vĩnh Phú, huyện Thuận An. Trong khi ông Huỳnh Công Nhẫn khai
khẩn đất đai, đào kênh, xẻ rạch giúp dân trồng tỉa canh tác, thì vị cư sĩ
Nguyễn Văn Lợi lập một chiếc am tu hành theo hình thức Mật tông, đồng thời hốt
thuốc Nam trị bệnh cho người dân. Dần dần, ông trở thành vị danh y nổi tiếng
khắp Nam kỳ Lục tỉnh. Dân gian còn kể rằng, cư sĩ Nguyễn Văn Lợi luyện được võ
công rất cao, thần lực thiên biến vạn hóa, chẳng hạn như có phép ẩn mình không
ai thấy được hoặc qua sông chỉ bằng chiếc nón lá. Đến năm 1908, khi cơ duyên
đầy đủ, ông cùng dân làng trùng tu lại ngôi thảo am, biến nơi đây thành chùa và
đặt tên là chùa Bình Đông. Sau khi trở thành trụ trì đầu tiên của chùa, nhà sư
này đến cầu pháp với Hòa thượng Chương Phụng-vị trụ trì đời thứ 3 của chùa
Thiên Tân ở An Thạnh. Cho đến nay, không ai nhớ rõ pháp danh cũng như năm viên
tịch, chỉ biết rằng ngài viên tịch vào mùng 9/1 âm lịch” [10]
Qua đây, việc truyền bá Phật giáo ở
Bình Dương còn có sự đóng góp của các vị cư sĩ thông qua những việc làm thiết
thực, hiệu quả giúp dân như đào kênh, xẻ rạch, trồng tỉa và bốc thuốc chữa
bệnh. Khi chưa có điều kiện lập chùa, họ xây dựng am tranh sống cùng dân để
tiện việc tu hành và hướng đạo cho bà con quanh vùng. Cư sĩ Nguyễn Văn Lợi nổi
tiếng bốc thuốc chữa bệnh, đặc biệt là có võ nghệ cao cường và pháp thuật.
Không duy chỉ là các nhà sư, câu chuyện trên cho thấy lòng ngưỡng mộ của người
dân đối các vị cư sĩ hết lòng vì họ là rất lớn. Những hành động giúp dân của vị
cư sĩ này là phương tiện để nhập thế hành đạo trong bối cảnh đời sống của họ
còn nhiều khó khăn, bệnh tật, thú dữ và trộm cướp hoành hành.Về sau, khi cơ
duyên đã đến, am này được dựng thành chùa, vị cư sĩ xuất gia thành tăng đúng
lúc việc khai khẩn đã hoàn thành, đời sống người dân ổn định.
Hai câu chuyện trên cho thấy quá
trình nhập cuộc, lăn lộn và chia sẻ cùng bao khó khăn, hoạn nạn với người dân
không chỉ là các vị thiền sư mà còn có cả những cư sĩ hiểu đạo. Tinh thần “buông
tay vào chợ” mà không hề nản lòng, do dự và sợ hãi của họ đã gieo vào lòng
người dân sự ngưỡng mộ, lòng hướng Phật sâu sắc. Đạo Phật cũng từ đó mà có điều
kiện thâm nhập, gắn bó và đồng hành cùng người dân Bình Dương qua những dặm dài
lịch sử.
II.2. Lòng ngưỡng mộ, tinh
thần hướng về Phật pháp và vai trò của Phật giáo trong đời sống người dân Bình
Dương
Sự tích Chùa Bà Thao (nay là chùa
Hưng Long, xã Thạnh Phước, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương) thể hiện niềm tin
sâu đậm của người dân với đạo Phật:
Sự tích Chùa Bà Thao
“Ngày xưa, chúa Nguyễn, với kế sách muốn định cư và phát triển lâu dài ở
vùng đất phương Nam, thường khuyến khích người dân dựng chùa chiền cúng Phật,
làm phước bố thí. Bà Phan Thị Khai, tên thường gọi là Bà Thao, đã hiến đất của
bà và bỏ tiền ra xây một ngôi chùa tại làng Dư Khánh, huyện Phước Long, phủ Gia
Định. Ngôi chùa được lấy tên là Chùa Hưng Long, nhưng dân gian vẫn quen gọi đó
là chùa Bà Thao. Chùa Hưng Long là nơi của gia đình dùng để chiêm bái, cầu
phước, vừa là nơi cho dân làng đến dâng hương mỗi dịp lễ. Sau khi vua Gia Long
lên ngôi, thực hiện lời nguyện ước của Bà Thao trước đây là cầu cho con trai đi
chiến trận bình yên trở về, gia đình bà đã cho đúc tượng Phật A Di Đà bằng đồng
và một chuông gia trì cúng cho Chùa Hưng Long. Vì là của gia đình, nên ngôi
chùa không có trụ trì. Về sau, dân làng mới thỉnh hai vị thiền sư phái Lâm Tế
là Quảng Cơ-Minh Lý và Bảo Châu-Minh Tịnh đến trụ trì và bắt đầu hoằng dương
Phật pháp cho người dân...” [11]
Qua truyện kể trên, lòng ngưỡng mộ
đạo Phật của người dân rất lớn, thông qua việc họ tự bỏ tiền, hiến đất xây dựng
chùa của Bà Thao. Điều này cho thấy một số gia đình khá giả ở Nam bộ khi xưa
xây chùa trước để cầu phước cho gia đình và sau dùng làm nơi cầu nguyện cho
cộng đồng. Lòng tin này được nhân lên bởi cuộc chiến tranh liên miên giữa hai
tập đoàn phong kiến Tây Sơn và Nguyễn Ánh khiến nhiều gia đình phải chia ly, xã
hội bất ổn. Việc Bà Thao cầu nguyện cho đứa con mình bình yên trở về lúc này đã
chỉ ra được Phật giáo trở thành một chỗ dựa tinh thần cho các gia đình có con
cái ra trận trong tình trạng cận kề sinh tử. Tượng Phật A Di Đà được đúc cúng
đã nói lên vị trí quan trọng của tín ngưỡng Tịnh Độ tông trong tâm thức của
người dân Nam bộ lúc đó. Đó là nhu cầu được cứu khổ cứu nạn, tiêu trừ tai ách
và giải thoát, mong mỏi về thế giới Tịnh Độ. Theo Hà Văn Tấn cho biết: “Ở
Việt Nam, không có một phái Tịnh Độ riêng biệt, nhưng tín ngưỡng Tịnh Độ phổ
biến rộng rãi, làm thành một cơ tầng bình dân cho Phật giáo. Theo tín ngưỡng
này, người ta tin có một cõi Tịnh Độ hay Tây Phương cực lạc, các Bồ tát Quan
Thế Âm và Đại Thế Chí đã tiếp dẫn linh hồn chúng sinh về nơi đó. Người ta chỉ
cần niệm tên Phật A Di Đà nhiều lần là có thể vãng sanh ở cõi Tây Phương cực
lạc. Tên Phật A Di Đà đã trở thành lời chào nhau của các tín đồ Phật giáo Việt
Nam” [12] Từ ngôi chùa của gia đình dần dần biến thành ngôi chùa của
cộng đồng, thông qua việc dân làng thỉnh hai thiền sư về trụ trì chùa Hưng
Long, là việc phổ biến ở Nam bộ khi trước. Câu chuyện Sự tích chùa An Lạc cho
biết một khía cạnh khác:
Sự tích Chùa An Lạc
“Năm 1882, dưới sự chủ trì của Hòa
thượng Quảng Bửu, Chùa An Lạc được xây dựng lại trên một khu đất thuộc xã Phú
Hòa. Khu đất này trước đó lâu lắm có ngôi
thảo am lợp bằng tranh. Dân gian gọi đây là chùa Mục Đồng. Dân làng kể
lại rằng, trước kia nơi này là một đồng cỏ xanh tươi. Trẻ chăn trâu thường thả
trâu đến ăn cỏ và lúc rảnh rỗi chúng tập hợp nhau lại cất một chiếc chòi tranh,
lấy đất sét nặn tượng Phật để thờ. Dân cư xung quanh thấy thế, vào những ngày
rằm đem cây trái, bông hoa đến cúng kiếng. Vì đây là đất công thổ, cho rằng
chùa xây trái phép, hương quản làng dẫn tuần đinh đến đốt chùa. Về nhà, ông ta
bị bệnh nằm vùi. Nghe lời bàn tán vì bị bệnh do đốt chùa, hương quản làng bực
tức cho người ra đốt chùa lần nữa. Lần này, ông ta nằm trong thời gian dài do
bị bệnh thập tử nhất sinh. Ông nguyện rằng nếu khỏi bệnh sẽ cất chùa lại tôn
thờ. Khi khỏi bệnh, ông cùng dân làng cất lại chùa và đặt tên là Chùa An Lạc
với ý nguyện cầu xin cho dân làng được sống mạnh khỏe, không bệnh tật ốm đau”
[13]
Chùa ban đầu do Mục đồng, tức những
trẻ chăn trâu, nắn tượng Phật rồi được người dân thờ cúng, xây dựng cũng là
chuyện hay được kể về việc hình thành một số ngôi chùa ở Nam bộ trước kia.
Người dân Nam bộ quan niệm rằng mục đồng chính là con của Thần Nông, không sợ
ma quỉ ôn dịch, nên có thể chặn lại chiếc bè chuối mang đồ vật tống ôn trong
các dịp cúng đình, miếu. Vì vậy, họ tin rằng tượng Phật do trẻ mục đồng nặn
thành là thiêng liêng, nên thành kính hương khói và dần trở thành ngôi chùa
làng. Tuy nhiên, qua giai thoại này, việc lập chùa trong làng khi xưa không dễ
mấy. Hương quản, người đại diện cho chính quyền làng xã, đã nhiều lần đốt phá
chùa, phản ánh sự quản lý khá nghiêm ngặt của nhà Nguyễn đối với Phật giáo, cụ
thể ở đây là việc lập chùa, tụ họp dân chúng cúng bái [14]. Dưới triều Nguyễn,
Nho giáo là hệ tư tưởng giữ vị trí độc tôn. Đồng thời, các vị vua Gia Long,
Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức đã nhiều lần ban chỉ dụ nắm lại số tăng sĩ, cấm
việc xây chùa, đúc tượng. Tuy nhiên, trong dân gian, đạo Phật vẫn còn sức sống
bền bĩ: “Do đó, khi nói đến những hoạt động Phật giáo của người dân dưới
triều Nguyễn, không thể quên những hoạt động tín ngưỡng của đại đa số nhân dân
lao động và cần thấy rằng đó mới là những hoạt động chủ yếu. Người dân đi chùa
ngày sóc, vọng, âm thầm ăn chay niệm Phật tại gia với một mong ước, một niềm
tin giúp cho họ sống, vượt qua mọi thử thách, cam go và gian khó” [15].
Việc hương quản làng hồi tâm chuyển ý, dựng lại ngôi chùa là biểu hiện của tính
dân chủ làng xã, là sự thắng lợi của dân làng trước bộ máy cai trị làng xã đã
can thiệp thô bạo vào tín ngưỡng, tôn giáo- một hình thức sinh hoạt văn hóa
tinh thần quan trọng của họ.
Vai trò của Phật giáo đối với cuộc
sống của người dân Nam bộ trước kia còn được thể hiện qua câu: “Ông thầy
chùa dỡ cũng đỡ xóm làng”. Ngày xưa, các nhà sư ở làng có vai trò khá lớn.
Không chỉ là tụng kinh niệm phật, họ còn bốc thuốc chữa bệnh, xem ngày tháng
cưới gả và xây cất nhà cửa, dạy chữ,…, đặc biệt là cúng kiến tang ma, cho nên
dù có thế nào đi nữa cũng rất cần thiết với người dân.Từ buổi đầu đặt chân đến
vùng đất mới, người tu sĩ là chỗ dựa tinh thần cho người dân trong vùng. Xa rời
quê cha đất tổ để đến vùng đất mà cuộc sống còn nhiều bộn bề trước mắt, việc cầu
an cho những người đau ốm để an ủi họ về tinh thần cũng như cầu siêu cho thân
nhân họ qua đời là những đòi hỏi bức thiết. Mối quan hệ tương trợ, giúp đỡ của
ngôi chùa làng với người dân đã là một mối quan hệ gắn bó, ràng buộc vô hình
giữa những người trong cộng đồng làng xã với ngôi chùa, phản ánh sự hài hòa,
dung hợp của đạo Phật vào cuộc sống dân dã [16]. Do vậy, câu thành ngữ trên
phản ánh rõ chức năng xã hội (hỗ trợ và giúp đỡ người dân), chức năng văn hóa
(đáp ứng nhu cầu tâm linh, sinh hoạt văn hóa cho dân làng) của Phật giáo ở làng
xã Nam bộ. Sơn Nam cho biết thêm: “Tôi hiểu “vân du”,“du phương” là nhập vào
cuộc đời, theo trào lưu vào Nam để trực tiếp giúp đồng bào đang bỏ quê quán đi
làm ăn nơi xa, phá rừng, sống chung với thú dữ và lũ lụt, với nằng lửa mưa dầu.
Chết giữa rừng hoang thì vui vẻ chấp nhận nhưng với điều kiện là có nhà sư tụng
kinh cầu siêu….Chết mà được Phật chiếu cố đã là mãn nguyện với thân nhân. Thiếu
nghi thức ấy là vô phước, trở thành cô hồn, “thập loại chúng sanh mà thi hào
Nguyễn Du đã nhắc nhở, nhờ đức Phật cứu rỗi”[17].
II.3. Một số sự kiện
lịch sử phản ánh sự gắn bó giữa Phật giáo với lịch sử Bình Dương.
Theo Hà Văn Tấn, văn học dân gian là
nguồn sử liệu quan trọng:“Nguồn sử liệu truyền miệng bao gồm tất cả những
thông tin về lịch sử chưa được tập hợp, còn lưu truyền tự nhiên trong dân gian,
và có nhiều dị bản khác nhau. Sự tồn tại của các huyền thoại, truyền thuyết,
trải qua nhiểu thời kỳ được bao phủ lên một màu sắc kỳ bí, tuy nhiên tất cả đều
có cốt lõi lịch sử của nó. Các nhà sử học cần phải biết tận dụng nguồn sử liệu
này để nghiên cứu lịch sử” [18]. Như vậy, văn học dân gian góp phần cho thế
hệ sau hiểu biết về lịch sử dân tộc một cách sống động-đó là hình thức lịch sử
truyền khẩu trong đời sống hằng ngày của nhân dân. Trong nguồn sử liệu quí giá
này ắt hẳn phải có những chi tiết quan trọng để thấy được lịch sử hình thành,
phát triển của Phật giáo Việt Nam và mối quan hệ giữa tôn giáo này với lịch sử
dựng nước, giữ nước của dân tộc ta.
Phật giáo Việt Nam, trong đó có Bình
Dương, trong quá trình du nhập và phát triển, đã gắn liền với vận mệnh lịch sử
dân tộc. Trong các giai thoại còn lưu truyền đến nay ở các ngôi chùa tỉnh Bình
Dương đã nhắc đến một số sự kiện lịch sử. Điều này cũng làm cho nội dung các
câu chuyện khá sinh động, thực tế và cho thấy vai trò của Phật giáo trong bối
cảnh lịch sử xã hội ở Bình Dương qua nhiều giai đoạn khác nhau. Sự tích chùa Bà
Thao cho biết cuộc chiến tranh giữa hai tập đoàn phong kiến Tây Sơn và Nguyễn
Ánh làm cho đời sống người dân xáo trộn, thậm chí cả các gia đình giàu có. Việc
Bà Thao cầu nguyện cho con mình bình yên trở về là khát vọng, mong mỏi của bao
gia đình có con ra chiến trường lúc đó. Một câu chuyện khác cho thấy một giai
đoạn lịch sử khác của Bình Dương nói riêng và Nam bộ nói chung:
Câu chuyện về quan đại thần và công chúa đi tu ở chùa Long Sơn
“Theo truyền lại, chùa Long Sơn được thiền sư Linh Đức thuộc dòng Lâm Tế,
đời thứ 40 khai sơn. Khi triều đình Huế giao 6 tỉnh Nam kỳ cho Pháp, trong đó
Biên Hòa, thì quan đại thần nhà Nguyễn Binh bộ Hữu Tham Tri Thị Viết Hiển Mục
Lễ Hầu họ Dư phò công chúa cùng người cháu ruột là Dư Quốc Đống chạy vào lánh
nạn tại chùa Long Sơn. Họ thấy cảnh thiền môn yên tỉnh, đồng thời chán nản
trước cảnh tàn khốc của chiến tranh, nên quyết định xuất gia tại chùa, cầu pháp
với hòa thượng Linh Đức. Sau khi hòa thượng viên tịch, vị quan đại thần họ Dư
tiếp nối trụ trì. Sau thời gian tu học, nhà sư này ngồi kiết già an nhiên thị
tịch. Tăng chúng và môn đồ an táng và xây dựng khu mộ trong khuôn viên chùa.
Người cháu của vị sư này là Dư Quốc Đống kế thế trụ trì, pháp danh là Như
Lương-Thiện Hạnh. Hiện nay, ngôi mộ này vẫn còn trên nền cũ, sau khi chùa được
dời đến ngọn đồi gần đó” [19]
Câu chuyện trên cho thấy cuộc chiến
tranh xâm lược của thực dân Pháp là tàn khốc và sự thất bại, mất phương hướng
của vua quan triều Nguyễn. Cho nên, mới có chuyện công chúa và vị quan nhà
Nguyễn phải nương thân vào chùa trước cảnh nước mất nhà tan, trước đổi thay của
thời cuộc. Họ khoác áo nâu sòng, nương thân nơi của Phật, đêm ngày với lời kinh
tiếng kệ để cầu mong giải thoát và không màng đến danh vọng. Vì vậy, ngôi chùa
đâu chỉ gắn liền với cuộc sống dân dã mà còn là nơi ẩn dật, nương náu của các
tầng lớp quí tộc, quan lại. Không chỉ có chùa Long Sơn, trong cuộc chiến tranh
với Tây Sơn (1788-1801), chùa Từ Ân là nơi trú ẩn của Nguyễn Ánh và quan quân,
chùa Khải Tường dành cho cung phi. Vào năm 1791, hoàng tử Đởm đã ra đời tại
chùa Khải Tường, sau này lên ngôi là vua Minh Mạng, vua đã nhớ lại việc lành
được “mẹ tròn con vuông” thuở trước nên sắc phong là “Sắc tứ Từ Ân tự”
vào năm 1821 và một hoành phi được khắc vào năm Quí Mão 1843 phong”Quốc Ân
Khải Tường tự” [20]. Chùa Từ Ân và Khải Tường là hai ngôi chùa nổi tiếng ở
Gia Định khi trước. Khi tấn công thành Gia Định, Pháp đã cho phá hủy hai ngôi
cổ tự danh tiếng này. Tương tự, chùa Sắc Tứ Thiên Tôn Cổ tự (nay thuộc thị trấn
An Thạnh, huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương) từng là nơi dừng chân của Nguyễn Ánh
trong lúc bôn ba xuôi ngược:
Chúa Nguyễn Ánh và chùa Thiên Tôn
“Khi quân Tây Sơn vào Nam đánh đuổi chúa Nguyễn, chúa Nguyễn Ánh và binh sĩ
của mình phải đi lẩn trốn.Trên đường lánh nạn thấy địa thế nơi này thuận
lợi, vừa đồi cao vừa có chùa nên chúa Nguyễn đến ẩn náu. Tương truyền, khi chúa
Nguyễn và binh sĩ của ông đến, hai vị thiền sư Gia Tiền và Gia Linh có lòng cảm
mến, nên thiết lập hương án trước điện Phật khấn nguyện cho chúa được bình yên.
Ba cây hương do thiền sư đốt cháy một lượt và cùng tắt một lượt. Chúa cho đây
là điều linh nghiệm. Thật vậy, cuối cùng chúa và binh sĩ của ông được thoát
nạn. Sau này khi lên ngôi, vua sắc phong rất nhiều ngôi chùa mà trước đây trên
đường lánh nạn Tây Sơn vua có ghé qua ẩn náu, trong đó có chùa Thiên Tôn. Do
nhiều cuộc chiến tranh nên chùa bị đốt cháy, hiện chùa không còn giữ sắc phong
của nhà vua nhưng còn lại một mảnh đồng được tìm thấy dưới lòng đất có khắc:
“Sắc tứ Thiên Tông Tự trụ trì Tăng Quảng Phước” [21]
Không chỉ ở Bình Dương, người dân ở Bến Tre, Tiền Giang, Cà Mau,…còn lưu truyền
nhiều câu chuyện ly kỳ liên quan đến Nguyễn Ánh, đặc biệt khi ông đối mặt với
những hoàn cảnh khó khăn, hiểm nghèo. Lê Thị Diệu Hà cho biết đây là mô típ
“vật linh điềm lạ” của các truyện kể về nhân vật lịch sử này. Ở giai đoạn
khởi đầu của một vương triều, thường có những câu chuyện truyền tụng cho tính
chất truyền kỳ như dọn đường cho sự xuất hiện một nhân tố mới với sức mạnh của
chính khí. Những truyện kể về “vật linh, điềm lạ” đặc biệt ứng nghiệm
được dân gian truyền tụng rộng rãi, hiệu ứng của nó có thể thấy đã phát huy tác
dụng nhất định đối với sự nghiệp nhà Nguyễn ở vùng đất Nam bộ [22]. Câu
chuyện còn là một hình thức lịch sử truyền khẩu để hiểu hơn về cuộc đời của
Nguyễn Ánh và sự hình thành, phát triển của ngôi chùa Thiên Tôn.
II.4. Đạo hạnh của nhà sư
Đạo Trung-Thiện Hiếu với việc góp phần củng cố niềm tin của người dân vào
Phật giáo
Trong bản thân tôn giáo, hai yếu tố
thiêng và trần tục luôn luôn song hành với nhau. Yếu tố trần tục giúp cho tôn
giáo hòa nhập nhanh vào đời sống xã hội con người, còn yếu tố thiêng với các
nghi lễ cúng bái, những huyền thoại được lưu truyền, những động tác chữa bệnh,
trừ tà…tạo nên một lực hút hấp dẫn đối với tín đồ, là cơ sở quan trọng để tôn
giáo tồn tại và phát triển. Phật giáo cũng không ngoại lệ điều đó. Chẳng hạn,
Thiền uyển tập anh là tập hợp các câu chuyện về đạo hạnh, pháp thuật của các vị
thiền sư Việt Nam từ thời Bắc thuộc đến đời Lý-Trần. Theo sách Thiền uyển tập
anh thì thiền sư Vạn Hạnh nói ra lời nào cũng đều là phù sấm có ứng nghiệm.
Thiền sư Từ Đạo Hạnh thì có pháp thuật cao cường, có thể khiến rắn núi, thú
đồng đến tụ tập mà tuân theo sự dạy dỗ, có thể đốt ngón tay cầu mưa, phun nước
chữa bệnh [23] . Tương tự, trong các truyện kể dân gian về Phật giáo Bình
Dương có câu chuyện nhắc đến sự đắc đạo tu hành của Tổ Đạo Trung-Thiện Hiếu:
Xá lợi của Tổ Đạo Trung-Thiện Hiếu
“Sau một thời gian hành đạo ở chùa
Long Hưng, Tổ Đạo Trung an nhiên thị tịch. Trước khi thị tịch, hàng đệ tử tôn
xưng ngài là tổ, nhưng ngài không đồng ý liền. Để tạo niềm tin về Phật pháp cho
hậu thế, ngài bảo với các đệ tử của mình: “Sau khi thị tịch, môn đồ sẽ thiêu
xác ta, nếu còn lại bàn tay làm vật chứng thì mới được gọi là tổ”. Qua đúng như
lời ngài nói, sau khi đồ chúng hỏa thiêu thân xác tổ thành tro thì còn lại một
bàn tay. Từ đó, ngài được tôn xưng vào hàng tổ. Môn đồ xây tháp ngài Đạo
Trung-Thiện Hiếu phía sau chùa Long Hưng để tôn thờ. Vì lẽ đó cũng như công đức
trong việc truyền bá Phật pháp, một số ngôi chùa mà ngài từng đến hành đạo như
chùa Long Thọ, chùa Hội Khánh đều có long vị để thờ. Riêng chùa Thiên Bửu đã
lập tháp vọng thờ Tổ Đạo Trung-Thiện Hiếu”[24]
Trong đạo Phật, xá lợi là phần kết tinh còn lại của đức Phật, các vị đệ tử và
cao tăng sau khi làm lễ trà tỳ-tức hỏa thiêu. Phật nhập niết bàn rồi, ngài Ma
ha Ca Diếp và đại chúng rước kim quan của ngài tới giàn thiêu để làm lễ trà tỳ
(jhàpeta, hỏa táng), làm lễ xong thì xá lợi (sarina) được chia làm nhiều phần
cho các nước để xây tháp cúng dường. Tập tục tín ngưỡng xá lợi cũng được bắt
nguồn từ đây [25]. Việc Sư Đạo Trung-Thiện Hiếu để lại xá lợi cho môn đồ pháp
quyến, làm cơ sở để các đệ tử xác nhận làm tổ sư là minh chứng quan trọng về sự
thành tựu đạo hạnh của ngài. Đồng thời, trong Sự tích Tổ Bưng Đĩa có chi tiết
ngài đã vượt qua những cám dỗ của Bà Đen rồi độ luôn vị thần này qui y Phật
pháp. Đạo Phật quan niệm, trong các loại cám dỗ đối với người xuất gia, cám dỗ
nhan sắc của phụ nữ là khó vượt qua nhất, ai vượt được thì người đó có thể
thành đạo. Luận Đại Trí độ ghi:”Bồ tát quán sát các dục thấy tất cả đều bất
tịnh, trong tất cả các tai hại thì sự tai hại từ người nữ là nguy hiểm nhất.
Các thứ như: Lửa, dao, sấm sét, kẻ thù, rắn độc còn có thể tạm gần gũi, nhưng
tuyệt đối không nên gần gũi người nữ” [26]. Như thế, cùng với Sự tích
Tổ Bưng Đĩa, truyện này tiếp tục khẳng định Đạo Trung-Thiện Hiếu là nhà sư chân
chính, quyết chí tu hành và đã viên thành đạo quả. Nhưng hơn hết, sự đắc đạo
của thiền sư đã làm cho hàng đệ tử, tín đồ nói riêng và người dân nói chung có
lòng tin vững chắc vào Phật pháp, để họ tiếp tục gắn bó, tin tưởng, đồng thời
góp phần hoằng dương đạo Phật. Theo sách Sơ thảo Phật giáo Bình Dương, Tổ Đạo
Trung-Thiện Hiếu sinh năm Quí Hợi (1743). Ngài đến vùng bưng (Cầu Định) vào
khoảng năm 1768 được dân làng dựng am nhỏ cho sư tá túc, thiền định. Đến năm
1794 (Giáp Dần), đạo đức sư được lan rộng khắp vùng, dân chúng phát tâm xin tổ
cho trùng tu lại chùa để làm nơi thờ phượng được khang trang hơn. Tổ Đạo
Trung-Thiện Hiếu có công truyền bá chánh pháp nơi đây. Hiện nay chưa biết rõ
tên tục và nguyên quán của sư, chỉ biết sư là bậc long trượng của thiền môn, là
vị đã khai sơn và trùng tu của nhiều ngôi chùa: Chùa Linh Sơn trên núi Bà Đen
(Tây Ninh), chùa Long Hưng (xã Tân Định, huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương), chùa
Hội Hưng và chùa Bà Tang (huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh),…. [27]. Vì lập
công đức lớn, sẵn sàng bố thí thân mình cho sự an cư lạc nghiệp của dân chúng,
đã viên mãn tu hành, cho nên hình ảnh Tổ Đạo Trung-Thiện Hiếu đã đi vào những
câu chuyện thật sinh động nhưng không kém phần thiêng liêng, thông qua hình
thức truyền miệng khá đơn giản, dễ đi vào lòng người, tạo sự an tâm cho dân
làng. Đó là cách truyền bá Phật pháp hiệu quả nhất đến họ. Ngoài ra, sư được
nhắc đến như một người con chí hiếu qua câu chuyện:
Người mẹ của Tổ Đạo Trung Thiện Hiếu
“Tổ Đạo Trung Thiện Hiếu là người con
chí hiếu. Khi ngài rời quê xuất gia tu học, mẹ ngài vì nhớ con đã lặn lội tìm
đến chùa. Tổ biết đó là mẹ mình nên nhận vào chùa và cho làm công quả. Nhưng vì
sợ mẹ mình biết ngài là con, bà sẽ có thái độ xem thường tăng chúng trong lúc
công quả, nên tổ không cho biết. Trong thời gian bà ở đây, tổ thường dặn dò
tăng chúng chăm sóc cụ bà khi ngài có Phật sự đi vắng. Mỗi tối, khi đại chúng
tịnh rồi, ngài âm thầm giặt đồ cho mẹ. Khi cụ lâm chung, Tổ Đạo Trung Thiện
Hiếu mới công bố trước đại chúng đây là mẹ của mình. Và khi qua đời, tổ đứng ra
lo an táng chôn cất trong khuôn viên chùa. Ngày nay, mộ cụ được chôn gần tháp
của tổ phía sau Chùa Long Hưng”[28]
Khi mẹ mình tìm đến chùa, ngài đã là
một nhà sư nổi tiếng, uyên thâm phật pháp, được mọi người kính nể. Việc ngài âm
thầm bảo người chăm sóc cho bà khi đi xa, tự tay sư giặt giũ quần áo mỗi tối đã
thể hiện được tinh thần hiếu đạo. Theo đạo Phật, hạnh hiếu rất quan trọng và
tôn giáo này cho rằng việc tín đồ chăm sóc và phụng dưỡng cha mẹ chính là kính
thờ các bậc hiền thánh, chư Phật. Tuy nhiên, đợi đến khi cụ bà lâm chung, ngài
mới loan báo đó là mẹ mình. Tổ Đạo Trung Thiện Hiếu đã làm được tinh thần đại
hiếu mà nhà Phật luôn chủ trương. Là một cao tăng được nhiều người trọng vọng,
khi biết mẹ mình xin tá túc trong chùa, nếu ngài vui mừng tiếp đón sẽ làm cho
bà chẳng may sanh tâm cao ngạo, ỷ lại, đặc biệt là coi thường tăng chúng. Đạo
Phật nhấn mạnh trọng Phật thì phải kính tăng. Để cụ trong chùa, ngày đêm công
quả, một lòng hướng về Phật pháp, tôn kính tam bảo chính là sư đã giúp mẹ mình
ngày ngày vun bồi thiện nghiệp, tạo được nhân lành. Khác với người tiểu hiếu
đơn thuần chỉ là phụng dưỡng vật chất cho đấng sinh thành, người đại hiếu theo
cách hiểu của đạo Phật: “Phật bảo các thầy sa môn: Xem người thế gian không
có hiếu thảo, chỉ thế này mới gọi là hiếu: Hãy khuyên cha mẹ bỏ ác làm lành,
thọ tam qui, giữ ngũ giới. Dù cha mẹ sớm mai thọ trì qui giới, chiều có chết,
đối với ơn nặng cha mẹ nuôi dưỡng, bú sú vô lượng cũng gọi là tạm đền”
[29]. Như vậy, không chỉ cố gắng chăm lo cho mẹ mình, ngài còn khéo léo giúp bà
thực hiện nhiều công đức cho bản thân. Ở miền Bắc nước ta, dân gian lưu truyền
Sư tích Hòa Thượng Cua và có mô típ giống câu chuyện này [30]. Hòa thượng Cua
chính là nhà sư Tông Diễn, hiệu Chơn Dung (1640-1711)-một vị cao tăng thời Hậu
Lê. Như vậy, cả hai truyện cùng hướng đến việc ca ngợi, giáo dục tinh thần đại
hiếu theo quan điểm nhà Phật. Qua những câu chuyện liên quan, có thể khẳng định
rằng ngài Đạo Trung-Thiện Hiếu là bậc danh tăng của đất Bình Dương xưa. Vị
thiền sư này, trong cuộc đời hành đạo của mình, đã để lại cho thế hệ sau khá
nhiều những câu chuyện thú vị, thể hiện sâu sắc giáo lý nhà Phật và cùng nhiều
yếu tố thiêng được pha trộn vào đó đã chứng minh sư đã viên mãn tu hành, đắc
đạo. Ngài là một tấm gương tiêu biểu cùng nhiều vị thiền sư chân tu và có đạo
hạnh cao thâm. Nhưng nổi bật hơn hết, đó là tấm lòng từ bi, chẳng tiếc thân
mình vì một cuộc sống ấm no, tốt đẹp cho nhân dân của sư. Điều này đã góp phần
chứng minh cho tinh thần nhập thế, hành đạo cứu đời-một đặc điểm của Phật giáo
dân tộc.
II.5. Nhận xét của người dân đối với
một số hành vi không phù hợp với giáo lý nhà Phật
Đạo Phật khi truyền vào nước ta đã nhanh chóng gắn chặt với cuộc sống của người
dân và trở thành tôn giáo của họ. Người dân luôn quí trọng những nhà sư có đạo
hạnh, yêu nước, thương dân và có lối sống giản dị. Mặt khác, do được tiếp xúc
thường xuyên, họ còn phê phán, đả kích những kẻ lợi dụng vào lòng tin của người
khác để trục lợi, hành động trái hẳn với giáo lý nhà Phật đang diễn ra trong
cuộc sống thường ngày. Với văn học dân gian Việt Nam, trong nội dung của truyện
cười và ca dao trào phúng là thể hiện rõ nét nhất điều này. Đối với truyện
cười: “Tác giả dân gian có thể tìm thấy và khai thác rất nhiều khía cạnh
trong mâu thuẫn giữa bề ngoài và thực chất của sư sãi và các hạng thầy để gây
cười. Những truyện này biểu hiện óc nhận xét tinh vi và óc tưởng tượng phong
phú của nhân dân…bọn họ không biết một chút gì về nghề nghiệp mà họ làm, không
xứng đáng giữ cái địa vị mà họ muốn bám lấy” [31]. Còn trong ca dao trào
phúng, những bài đả kích vào các đại biểu trụy lạc của nhà chùa và các loại
thầy cúng, thầy bói chiếm một số lượng khá nhiều. Ở trong nhân vật nhà sư hổ
mang, bị đả kích tập trung nhất là tính cách thoát tục giả dối. Tính cách này
thường biểu hiện ra ở mâu thuẫn giữa sự chay tịnh cần phải có của nhà sư với
những dục vọng về ăn uống và trai gái, những dục vọng của những con người trần
tục nhất [32]. Văn học dân gian ở Bình Dương có nhắc đến một số biểu hiện biến
tướng hoặc là sự phê phán, nhận xét của người dân đến một số hành vi không phù hợp
với giáo lý nhà Phật. Đó là lời của một người dân nói về một số người tuy đã
khoác áo nâu sòng nhưng chưa quên được mùi thế tục:
“Bậu muốn tu thân?
Qua gần coi thử
Đừng làm bất tử
Mà hại chúng sinh
Thầy chùa đây qua đã thấy nhiều anh
Miệng nói tuy không sắc mà lòng đành sắc không” [33]
Bài Vè mần tuần mãn phục nhắc đến
cảnh khốn khó phải vay mượn tiền nong của người đàn bà có chồng vừa qua đời:
“Không có đồng điều
Đi
vay tiền ngày
Trả
hủy trả hoài
Lấm la lấm lét
Nợ trả không hết
Muốn chết theo ông…” [34]
Việc tang ma là tốn kém, đặc biệt
phần lớn phải dùng cho việc đặt tiền cúng cho thầy kèn, thầy chùa, đối với một
người thiếu phụ đang trong lúc túng quẫn là một điều đáng suy nghĩ. Đạo Phật là
đạo từ bi, cứu khổ cứu nạn. Đáng lý ra trước tình cảnh ấy những người đệ tử
Phật phải giúp đỡ những người chẳng may trở nên cô quạnh. Thế nhưng, trước cảnh
ngược xuôi vất vả mà chẳng có ai đến giúp đỡ, người cô phụ ấy than thở thật xót
xa:
“Nghe vẻ nghe ve
Nghe vè mần tuần mãn phục
Cực đã hết hơi
Thầy chùa một nơi
Thầy kèn một ngã
Lại mời thầy cả
Lại tới chứng miêng
Rót rượu ra liền
Đặt quan tiền tổ
Thân nghèo cực khổ
Mỗi chỗ mỗi quan
Thắp nhang các bàn
Khói hương đầy đủ
Bận vô áo mũ
Thầy chùa nam mô
Cắm đầu mà lạy…”[35]
Văn học dân gian là lời ăn tiếng nói
hằng ngày của người dân và có chức năng tìm hiểu dư luận xã hội rất tốt. Ở đây,
chúng tôi muốn nói rằng, mặc dù chưa có điều kiện sưu tầm các tư liệu văn học
dân gian về chủ đề này nhiều hơn nữa, nhưng thông qua đây có thể thấy đã xuất
hiện một bộ phận tu sĩ xa rời tinh thần bi, trí, dũng và buông bỏ giới luật
xuất hiện trong giới tu sĩ Phật giáo Bình Dương nói riêng và Nam bộ nói chung
trước đây. Sách Tam thiên oai nghi nói rõ: ”Những việc người xuất gia thường
làm là tọa thiền, tụng kinh, khuyến hóa. Nếu đầy đủ ba việc này thì đó là người
xuất gia đúng pháp, nếu không thực hành thì đó là kẻ sống thừa chết uổng, chỉ
gây nhân đau khổ mà thôi” [36]. Thực trạng này là nguyên nhân chính
để xuất hiện và nhanh chóng lan rộng phong trào chấn hưng Phật giáo ở Nam bộ
đầu thế kỷ XX. Một trong nhiều chủ trương quan trọng của phong trào này là chấn
chỉnh, giáo dục cho tăng ni hành động đúng tinh thần chánh pháp, nghiêm trì
giới luật, đóng góp thiết thực cho xã hội và nước nhà. Nhà sư Thích Khánh Hòa-
một trong những nhân vật nồng cốt của phong trào này đã bộc bạch: “Phật pháp
suy đồi và không đoàn kết, cho nên muốn chấn hưng Phật giáo phải thực hành ba
việc: Chỉnh đốn tăng già, kiến lập Phật học đường và diễn dịch, xuất bản kinh
sách Việt ngữ” [37].
III. Một số nhận xét
Tóm lại, qua tìm hiểu ban đầu về văn
học dân gian Phật giáo ở Bình Dương, chúng tôi có một vài nhận xét như sau:
_ Thứ nhất, Phật giáo đã ảnh hưởng khá sâu sắc đến lịch sử, xã hội và văn hóa
dân gian của người dân Bình Dương. Thông qua những nội dung đã đề cập, Phật
giáo không tồn tại một cách riêng rẽ mà đã quyện chặt cùng nhiều yếu tố xã hội,
văn hóa và các lớp lịch sử. Điều này cũng góp phần lý giải tại sao ngày nay đạo
Phật có ảnh hưởng sâu rộng trong tâm thức của bao con người ở miền đất giàu đẹp
và hiền hòa, thân thiện này.
_ Thứ hai, những nội dung đã góp phần khẳng định có một bộ phận văn học dân
gian về Phật giáo đã tồn tại trong dòng chảy của văn học dân gian Bình Dương.
Dòng văn học này không chỉ tồn tại trong phạm vi chốn chùa chiền, trong đời
sống tinh thần của các vị tăng ni, phật tử mà còn lưu truyền ở chốn làng xã, ở
đời sống dân gian. Bởi vậy, khi nào Phật giáo còn đồng hành với cuộc sống của
người dân thì lúc đó nó sẽ được tiếp thêm sức sống.
_ Thứ ba, tìm hiểu văn học dân gian Phật giáo Bình Dương cho thấy tiến trình
thâm nhập và phát triển của đạo Phật vào đời sống của người dân ở nhiều giai
đoạn và góc độ khác nhau. Qua đó góp phần cho thấy sự hình thành và phát triển
của đạo Phật ở miền đất này thật không mấy dễ dàng, đặc biệt là ở buổi đầu khai
khẩn với tinh thần nhập thế quên mình của các vị thiền sư, cư sĩ. Hình ảnh của
họ đã lưu lại trong lòng hậu thế với sự ngưỡng mộ, tin tưởng và thật thiêng
liêng. Điều này làm cho Phật giáo Bình Dương mang tính chất dân gian rõ nét.
_ Thứ tư, một điều đáng quan tâm là phần lớn các nội dung có liên quan đến văn
học dân gian Phật giáo ở Bình Dương được chuyển tải thông qua truyện kể dân
gian. Cụ thể hơn, đó chính là thể loại truyền thuyết :”Là một thể loại lớn
trong văn học dân gian, đã hình thành và vận động phát triển lâu đời…. Tựu
trung, truyền thuyết là những tự sự dân gian có cái lõi lịch sử, màu sắc ít
nhiều huyền ảo, nội dung kể về các nhân vật và sự kiện lịch sử” [38]. Ngoài
ra, chúng tôi muốn nói đến có quá ít các thể loại khác để cùng chuyển tải những
nội dung liên quan đến Phật giáo. Phải chăng công việc sưu tầm văn học dân gian
về Phật giáo còn quá ít nên chưa có sự góp mặt nhiều thể loại khác? Cùng một
nội dung nhưng với mỗi thể loại khác nhau của văn học dân gian sẽ chuyển tải
vấn đề ấy theo những tầng bậc của cảm xúc con người khác nhau. Chẳng hạn như ca
dao, dân ca là loại hình văn học dân gian mà có thế mạnh chuyển tải được nhiều
tình cảm của người bình dân. Vì vậy, việc triển khai sưu tầm và tìm hiểu văn
học dân gian có nội dung liên quan đến Phật giáo Bình Dương cần được tiếp tục
đối với những ai quan tâm. Nếu thực hiện được, điều này có vai trò trong việc
góp phần bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể của Phật giáo hiện nay.
_ Thứ năm, thông qua văn học dân gian Phật giáo ở Bình Dương, có thể thấy được
những tư tưởng, triết lý sâu sắc của nhà Phật được vận dụng một cách uyển
chuyển vào từng tác phẩm dân gian cụ thể. Đồng thời, những chi tiết mang yếu tố
linh thiêng, những hành động phi thường của các vị thiền sư, cư sĩ đã giúp cho
đạo Phật nhanh chóng đi vào lòng người và mang ý nghĩa giáo dục sâu sắc cho
những tín đồ nhà Phật về sau.
Chú Thích
[1]: Thích Huệ Thông, Sơ Thảo Phật giáo Bình Dương,
NXB Mũi Cà Mau và Tỉnh hội Phật giáo Bình Dương, 2000, trang 11.
[2]: Ngô Đức Thịnh và Frank Proschan
(đồng chủ biên), Folklore thế giới một số công trình nghiên cứu cơ bản. Hà Nội, NXB Khoa học Xã hội, 2005, trang 108-109.
[3]: Ngô Đức Thịnh và Frank Proschan (đồng chủ
biên), Folklore thế giới, một số công trình nghiên cứu cơ bản. Hà Nội, NXB Khoa học Xã hội, 2005, trang 96.
[4]: Đặng
Thị Thu Hà, Yếu tố tôn giáo và truyện cổ tôn giáo trong truyện kể dân gian
Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 7/2008. Dẫn theo: http://khoavanhocngonngu.edu.vn/home/index.php?option=com_content&view
=article&id=2547%3Ayu-t-ton-giao-va-truyn-c-ton-giao-trong-truyn-k-dan-gian-vit-nam&catid=97%3Avn-hoa-dan-gian&Itemid=155&lang=vi.
[5]: Câu chuyện này do Thượng
tọa Thích Huệ Thông-Trụ trì chùa Hội Khánh, thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương
kể lại.
[6]: Thích Nguyên Chơn (chủ biên), Thiện ác nghiệp báo
chư kinh yếu tập (tập 1), Tp.HCM, NXB Phương Đông, 2009, trang 668.
[7]: Thích Nguyên Chơn (chủ
biên), Thiện ác nghiệp báo chư kinh yếu tập (tập 1), Tp.HCM, NXB Phương
Đông, 2009, trang 668.
[8]: Trần Hồng Liên, Góp phần tìm
hiểu Phật giáo ở Nam bộ, Hà Nội, NXB. Khoa học Xã hội, 2004, trang 15.
[9]: Sơn Nam, Một nét xưa và nay của Phật giáo Gia
Định-Sài Gòn-Thành phố Hồ Chí Minh. Trích trong: Nhiều tác giả, Hội thảo
khoa học 300 năm Phật giáo Gia Định-Sài Gòn-Thành phố Hồ Chí Minh, Thành
phố Hồ Chí Minh, NXB. Thành phố Hồ Chí Minh, 2002, trang 26.
[10]: Tỉnh Hội Phật giáo Bình Dương, Những ngôi chùa ở
Bình Dương quá khứ và hiện tại, Hà Nội, NXB Tôn giáo,2006, trang
165-166.
[11]: Tỉnh Hội Phật giáo Bình Dương, Những ngôi chùa ở
Bình Dương quá khứ và hiện tại, Hà Nội, NXB Tôn giáo,2006, trang 189.
[12]: Hà Văn Tấn, Đến với lịch sử văn hóa Việt Nam,
Hà Nội, Nxb.Hội Nhà văn, 2005, trang 183.
[13]: Nguồn: Tỉnh Hội Phật giáo Bình Dương, Những ngôi
chùa ở Bình Dương quá khứ và hiện tại, Hà Nội, Nxb.Tôn giáo, 2006, trang
53-54.
[14]: Vì là giai thoại dân gian, nên
chúng tôi chưa biết cụ thể về thời điểm hình thành ngôi chùa. Do vậy,
trên đây chỉ là những giả thuyết mà chúng tôi phân tích dựa trên bối
cảnh Phật giáo dưới thời nhà Nguyễn giai đoạn 1802-1858.
[15]: Trần Hồng Liên, Góp phần
tìm hiểu Phật giáo ở Nam bộ, Hà Nội, NXB Khoa học Xã hội, 2004, trang108.
[16]: Trần Hồng Liên, Góp phần
tìm hiểu Phật giáo ở Nam bộ, Hà Nội, NXB Khoa học Xã hội, 2004, trang 221.
[17]: Sơn Nam, Một nét xưa và nay
của Phật giáo Gia Định-Sài Gòn-Thành phố Hồ Chí Minh. Trích trong: Nhiều
tác giả, Hội thảo khoa học 300 năm Phật giáo Gia Định-Sài Gòn-Thành phố Hồ
Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 2002, trang 27.
[18]: Hà Văn Tấn, Một số vấn đề
lý luận sử học, Hà Nội, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2007, trang 142.
[19]: Nhiều Tác giả, Bình Dương danh lam cổ tự,
Hội Khoa học Lịch sử tỉnh Bình Dương, 2008, trang 55.
[20]: Trần Hồng Liên, Góp
phần tìm hiểu Phật giáo ở Nam bộ, Hà Nội, NXB Khoa học Xã hội, 2004, trang
18.
[21]: Thích Huệ Thông, Sơ
Thảo Phật giáo Bình Dương, NXB Mũi Cà Mau và Tỉnh hội Phật giáo Bình
Dương, 2000, trang 96-97.
[22]: Lê Thị Diệu Hà, Về
nhóm truyện ”vật linh điềm lạ” trong truyện dân gian về chúa Nguyễn ở vùng Nam
bộ, Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, số 22b /2012,
trang 89-96.
[23]: Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân,
Mai Cao Chương, Văn học Việt Nam thế kỷ X đến nửa đầu thế kỷ XVIII, Hà
Nội, NXB Giáo dục, trang 50.
[24]: Nhiều Tác giả, Bình Dương
danh lam cổ tự, Hội Khoa học Lịch sử tỉnh Bình Dương, 2008, trang 104.
[25]: Thích Thanh Kiểm, Lược sử
Phật giáo Ấn Độ, Hà Nội, NXB Tôn giáo, 2001, trang 42.
[26]: Thích Nguyên Chơn (chủ biên), Thiện
ác nghiệp báo chư kinh yếu tập (tập 2), Thành phố Hồ Chí Minh, NXB Phương
Đông, 2009, trang 976.
[27]: Thích Huệ Thông, Sơ
Thảo Phật giáo Bình Dương, NXB Mũi Cà Mau và Tỉnh hội Phật giáo Bình
Dương, 2000, trang 85-86.
[28]: Thích Huệ Thông, Sơ Thảo
Phật giáo Bình Dương, NXB Mũi Cà Mau và Tỉnh hội Phật giáo Bình
Dương, 2000, trang 87-88.
[29]: Dẫn theo Thích Thanh Từ, Phật
giáo với dân tộc, Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành, 1992,
trang 186.
[30]: Sự tích Hòa Thượng Cua như
sau: Ở miền Bắc nước ta có một cậu bé sống với mẹ tại một làng quê nghèo, hẻo
lánh. Người mẹ tảo tần buôn bán nuôi con qua ngày. Năm chú bé mười hai tuổi,
một hôm trước khi gánh hàng ra chợ, bà bảo con trai giã giỏ cua để nấu canh làm
cơm trưa. Khi giã cua, chú bé động lòng thương và đem cả giỏ trút xuống ruộng.
Trưa về, khi ăn cơm, bà không thấy món canh cua và hỏi ra nguyên cớ. Vừa đói
vừa giận, bà vớ cây đủa bếp đánh con. Đứa bé hớt hãi bỏ chạy và xa mẹ từ đó. Ba
mươi năm sau, bà mẹ già nua mỗi ngày vẫn ra chợ. Bỗng nhiên, một ngày nọ, có
một vị tăng trạc tuổi trung niên ghé hỏi thăm và mong muốn mang bà về chùa để
nuôi dưỡng. Bà cụ nhận lời về ở chùa, làm công quả hằng ngày. Ngày tháng dần
qua, biết bà cụ sắp qua đời, vị trù trì-tức vị tăng trung niên đã mang bà về
chùa lại bận việc phật sự ở nơi xa. Trước khi đi, ngài dặn dò nếu bà mất thì
nhờ chư tăng tẩn liệm, đừng vội mai táng mà hãy đợi ngải về. Quả thật, bà lão
mất được một hôm thì ngài về. Đứng trước quan tài, ngài khấn nguyện rằng theo
đúng lời Phật dạy nếu con cái tu đắc đạo thì cha mẹ sẽ được sinh thiên và đúng
vậy thì xin cho quan tài bay bỗng lên và vỡ làm 3 mảnh. Sự việc diễn ra đúng
như lời khấn của ngài trước sự kinh ngạc của mọi người. Hòa thượng bèn thuật
lại thân thế của mình, chẳng ai khác là cậu bé thả cua dạo nọ, còn bà lão quá
cố chính là mẹ mình. Dẫn theo: http://daitangkinhvietnam.org/van-hoc-va-nghe-thuat/phat-dan-va-vu-lan/603-hoa-thng-cua.html.
[31]: Đinh Gia Khánh (chủ biên), Chu
Xuân Diên, Võ Quang Nhơn, Văn học dân gian Việt Nam, Hà Nội, NXB Giáo
dục, 1998, trang 381.
[32]: Đinh Gia Khánh (chủ biên), Chu
Xuân Diên, Võ Quang Nhơn, Văn học dân gian Việt Nam, Hà Nội, NXB Giáo
dục, 1998, trang 471.
[33]: Hội Văn học nghệ thuật Bình
Dương, Tổng tập thơ Bình Dương (1945-2005), Bình Dương, 2004, trang 12.
[34]: Lư Nhất Vũ-Lê Giang (chủ
biên), Dân ca và Thơ ca Bình Dương, Hội Văn học nghệ thuật Bình Dương,
2001, trang 335.
[35]: Lư Nhất Vũ-Lê Giang (chủ
biên), Dân ca và Thơ ca Bình Dương, Hội Văn học nghệ thuật Bình Dương,
2001, trang 334.
[36]: Thích Nguyên Chơn (chủ biên), Thiện
ác nghiệp báo chư kinh yếu tập (tập 2), Tp.HCM, Nxb.Phương Đông, 2009,
trang 1218.
[37]: Dẫn theo Trần Hồng Liên, Góp
phần tìm hiểu Phật giáo ở Nam bộ, Hà Nội, Nxb.Khoa học Xã hội, 2004, trang
384.
[38]: Võ Phúc Châu, Truyền thuyết
dân gian về những cuộc khởi nghĩa chống Pháp ở Nam bộ, Hà Nội, NXB Thời
Đại, 2011, trang 35.
Tài liệu tham khảo
1. Đinh Gia Khánh, Bùi Duy
Tân, Mai Cao Chương, Văn học Việt Nam thế kỷ X đến nửa đầu thế kỷ XVIII,
Hà Nội, NXB Giáo dục, 1998.
2. Hà Văn Tấn, Đến với lịch
sử văn hóa Việt Nam, Hà Nội, Nxb.Hội Nhà văn, 2005.
3. Hà Văn Tấn, Một số vấn
đề lý luận sử học, Hà Nội, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2007.
4. Hội Văn học nghệ thuật Bình
Dương, Tổng tập thơ Bình Dương (1945-2005), Bình Dương, 2004.
5. Lê Thị Diệu Hà, Về nhóm
truyện ”vật linh điềm lạ” trong truyện dân gian về chúa Nguyễn ở vùng Nam bộ,
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, số 22b /2012
6. Lư Nhất Vũ-Lê Giang (chủ
biên), Dân ca và Thơ ca Bình Dương, Hội Văn học nghệ thuật Bình Dương,
2001.
7. Ngô
Đức Thịnh và Frank Proschan (đồng chủ biên), Folklore thế giới một số công trình
nghiên cứu cơ bản. Hà Nội, NXB Khoa học Xã hội, 2005
8. Nhiều tác giả, Hội thảo
khoa học 300 năm Phật giáo Gia Định-Sài Gòn-Thành phố Hồ Chí Minh, Thành
phố Hồ Chí Minh, NXB. Thành phố Hồ Chí Minh, 2002.
9. Nhiều Tác giả, Bình
Dương danh lam cổ tự, Hội Khoa học Lịch sử tỉnh Bình Dương, 2008.
10. Tỉnh Hội Phật giáo Bình Dương, Những ngôi chùa
ở Bình Dương quá khứ và hiện tại, Hà Nội, NXB Tôn giáo, 2006.
11. Thích Huệ Thông, Sơ Thảo Phật giáo Bình Dương,
NXB Mũi Cà Mau và Tỉnh hội Phật giáo Bình Dương, 2000.
12. Thích Nguyên Chơn (chủ biên), Thiện
ác nghiệp báo chư kinh yếu tập, Tp.HCM, NXB Phương Đông, 2009.
13. Trần Hồng Liên, Góp phần tìm hiểu Phật giáo ở
Nam bộ, Hà Nội, NXB. Khoa học Xã hội, 2004.
14. Nhiều Tác giả, Bình Dương danh lam cổ tự,
Hội Khoa học Lịch sử tỉnh Bình Dương, 2008.
15. Thích Thanh Kiểm, Lược sử Phật giáo Ấn Độ,
Hà Nội, NXB Tôn giáo, 2001..
16. Võ Phúc Châu, Truyền thuyết dân gian về những
cuộc khởi nghĩa chống Pháp ở Nam bộ, Hà Nội, NXB Thời Đại, 2011
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét