Võ Đông Điền
Năm
2009, tôi cùng với đoàn cán bộ Lãnh đạo tỉnh Bình Dương đi thăm và làm việc trên
các đảo thuộc huyện đảo Trường Sa. Đoàn gồm 10 thành viên do Bà Đào Ngọc Nữ, Nguyên
Uỷ viên Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, Chủ tịch Uỷ ban MTTQVN tỉnh làm Trưởng đoàn. Ngoài đoàn
Bình Dương còn có các đoàn cán bộ lãnh đạo của các tỉnh, thành khác như : Hải
Phòng, Đà Nẳng, Lâm Đồng, Bà Rịa-Vũng Tàu và các phóng viên báo, đài của trung ương
và địa phương.
6 giờ 30 sáng ngày 12/4/2009, Đoàn được
xe của Bộ Tư lệnh Hải quân đưa từ Nhà khách Hải quân ra cảng Cát Lái. Sau khi làm
Lễ xuất quân, chiếc tàu HQ 936 thuộc vùng 4 Hải quân bắt đầu nhổ neo rời bến cảng,
chạy dọc theo sông Thị Vải ra hướng Vũng Tàu.
Với tốc độ 8 hải lý/giờ, sau 6 tiếng đồng
hồ kể từ lúc khởi hành, tàu mới ra đến phao số 0. Lúc này, cảnh trời nước mênh
mông đã hiện ra trước mắt mọi người. Trời yên, biển lặng, con tàu cứ dập dềnh,
lầm lũi tiến đi. Đây là lần đầu tiên trong đời tôi được đi tàu ra biển. Cái cảm
giác đầu tiên của một người khi đứng giữa biển khơi đó là cái cảm giác mình quá
nhỏ nhoi trước biển. Ngay cả con tàu có chiều dài gần 100 mét mà tôi có cảm giác
nó cũng nhỏ bé như một chiếc thuyền con giữa mặt hồ bao la. Bất chợt, tôi lại nhớ đến hai câu thơ của nhà thơ Xuân Quỳnh
trong bài Thuyền và biển :
Chỉ có thuyền mới hiểu
Biển
mênh mông nhường nào
Chỉ có
biển mới biết
Thuyền đi đâu về đâu …
Võ Đông Điền trên đường ra đảo Nam Yết (Trường Sa) |
Bầu trời như cái lồng chụp khổng lồ chụp lên mặt biển.
Nơi tiếp giáp giữa trời và nước là một vòng tròn khép kín mà con tàu nằm ở
trung tâm. Thật đúng như các nhà khoa học đã nhận xét: quả địa cầu là một hành
tinh nước. Khi đứng ở đất liền nhìn ra, chúng ta đã từng biết đến cái mênh mông
của biển, thế nhưng khi đứng trên một con tàu giữa biển khơi mênh mông trời nước
thì cái cảm giác ấy càng tăng lên gấp bội. Có hai điều gây ngạc nhiên cho tôi
trong những ngày đầu ra biển, đó là càng ra khơi xa, nước biển càng xanh đậm hơn,
tưởng chừng như cái màu xanh của nước biển sắp chuyển sang màu đen . Chưa bao
giờ tôi thấy biển xanh đến thế . Điều ngạc nhiên thứ hai là có những lúc biển
không có gió và tất nhiên là biển không có sóng, đi tàu trên biển mà ta có cảm
giác oi bức, nóng nực như những lúc im gió khi ở trên đất liền . Con tàu như đang
di chuyển trên mặt hồ bao la …
Trời yên, biển lặng và con tàu cứ dập
dềnh, lầm lũi tiến đi …Thỉnh thoảng có vài chú cá heo bơi theo tàu, phóng mình
lượn múa trên mặt biển như vui mừng đón chào những người khách lạ .
Đến trưa ngày 13-4-2009, con tàu mới
chỉ đi được 2/3 chặng đường để đến được hòn đảo đầu tiên. Nếu khởi hành từ Nha
Trang hay Cam Ranh thì chỉ mất 36 tiếng để đến được Trường Sa, còn nếu đi từ hướng
Cát Lái ra Vũng Tàu thì phải mất hơn 50 tiếng .
Thế là giờ phút chờ đợi cũng đã đến .
Sau hai này rưởi lênh đênh trên mặt biển, 11 giờ trưa ngày 14-4-2009, tàu cũng đã
đến được đảo Đá Lớn. Cụm đảo Đá Lớn gồm có 3 đảo : Đá Lớn A, Đá Lớn B và Đá Lớn
C, mỗi đảo cách nhau khoảng 2-3 hải lý. Nơi đoàn đến hiện giờ là đảo Đá Lớn B. Đây
là một đảo chìm được tôn tạo lên cao thành nơi đóng quân của cán bộ chiến sĩ trên
đảo. Nhìn từ xa, nó giống như một toà nhà mọc nhô lên mặt biển. Tuy nhiên, phần
san hô nằm chìm phía dưới có diện tích còn khá lớn, nếu có điều kiện kè đá bao
bọc thì diện tích sử dụng của nó có thể lên đến 10 héc-ta.
Vì phải tránh lớp san hô nằm chìm phía dưới, nên tàu
phải dừng cách đảo khá xa, mọi người phải đi bằng ca-nô vào đảo. Cái cảm giác lần
đầu tiên được đặt chân lên một hòn đảo nằm cách xa đất liền làm cho mọi người lâng
lâng, nôn nao, lạ lẫm, hoà quyện với cái cảm xúc bồi hồi của những người chiến
sĩ trên đảo khi được tiếp đón đoàn khách từ đất liền ra thăm làm mọi người đều
cảm thấy hạnh phúc. Những nụ cười rạng rỡ, những cái bắt tay thân thiện, những
câu chào hỏi râm ran… đã làm cho không khí trên đảo ấm áp hẳn lên.
Không khí trên đảo càng sôi động hơn
khi có tiếng nhạc, lời ca từ những diễn viên xinh đẹp của Đoàn Văn công tỉnh Bà-Rịa-Vũng
Tàu.Người hát như chưa từng được hát, người nghe như chưa từng được nghe giọng
hát, lời ca của những người con gái. Tôi cũng đã hát ngay ca khúc mới sáng tác
của mình viết riêng cho cán bộ, chiến sĩ Trường Sa trong chuyến đi này: Trường Sa trong trái tim ta vì Việt Nam
trong trái tim ta. Quê hương đất nước
vẹn toàn không quên người lính đảoTrường Sa...Lời ca thể hiện sự tri ân của những người hậu phương đối với các chiến sĩ
nơi đảo xa ngày đêm canh giữ biển
trời để bảo vệ chủ quyền Tổ quốc.
Sau 4 giờ lên đảo thăm hỏi, giao lưu và
làm việc với cán bộ, chiến sĩ đảo Đá Lớn B, đoàn tạm biệt những người lính đảo
trong bùi ngùi và nuối tiếc thời gian sao chóng qua mau. Những chiếc ca-nô lại đưa
mọi người trở lại tàu. Đêm nay, tàu sẽ neo lại đây và sẽ tiếp tục cuộc hải trình
vào lúc 01 giờ sáng hôm sau.
Những hôm trước, tàu chạy suốt đêm nên
mọi người hoặc vào phòng để nghỉ ngơi hoặc ra boong tàu hứng gió, rồi đong đưa
trên võng tìm vào giấc ngủ, vì biển đêm chẳng có gì để ngắm, nhất là những lúc
nhiều mây, bên ngoài chỉ là một màn đêm dày đặc, chỉ có những ngọn đèn lờ mờ của
con tàu âm thầm, lầm lũi trong đêm.
Nhưng đêm hôm nay thì khác hẳn, ăn cơm chiều xong đã
thấy các thuỷ thủ treo 2 ngọn đèn pha ở 2 bên thân tàu. Chẳng mấy chốc, từng đàn
cá nhỏ li ti thấy ánh sáng bu lại mạn tàu, rồi những con cá lìm kìm biển, cá
chuồn cũng từ ngoài xa theo ánh sáng đèn mà phóng tới, có con vì quá hưng phấn
nên phóng quá nhanh, đâm đầu vào thân tàu bị chấn thương, bơi dật dờ trên mặt nước.
Lúc này, người săn cá chỉ có mỗi một việc là lấy vợt vớt cá lên tàu. Đối với loại
cá lìm kìm biển, cá chuồn thì không phải câu, chỉ đợi khi chúng “bắt đèn”, áp sát
vào mạn tàu thì lấy vợt vớt lên, chủ yếu là cá chuồn, nhưng không phải để ăn mà
để làm mồi câu các loại cá biển khác lớn hơn .
Cá chuồn to độ
nửa cườm tay, dài khoảng trên dưới 30cm . Điểm đặc biệt của nó là có hai cái vây
bên hông phát triển thành đôi cánh mỏng dùng để bơi khi ở dưới nước và để bay
khi phóng mình lên khỏi mặt nước . Chính những con cá chuồn này mà lúc ban ngày,
tôi đã thấy nó từ dưới biển phóng mình lên bay là đà trên mặt nước khoảng vài
chục mét rồi lại chui xuống biển mất hút. Lúc ấy, tôi cứ nghĩ đó là một loài
chim bói cá của biển. Đêm nay, tôi có dịp được chứng kiến tận mắt những con
chim bí ẩn ấy chính là những chú cá chuồn .
Khi đã có đủ số cá chuồn để làm mồi, người câu lại thả
những chú cá chuồn có gắn lưỡi câu xuống biển . Không phải chờ đợi lâu, đã có tín
hiệu từ dưới biển, những sợi dây câu được phăng vội, từng con cá ngừ được kéo lên
hoà theo những tiếng hò reo vang dội. Một con … hai con … ba con …chỉ trong vòng
gần hai giờ đồng hồ mà đã có gần một chục con cá ngừ được câu lên, mỗi con nặng
khoảng 5-6 ký. Cả đêm câu được hàng trăm ký cá là chuyện trong tầm tay . Tiềm năng
kinh tế của vùng biển nước ta thật dồi dào và phong phú mà ta chưa có điều kiện
để khai thác hết; đó là tiềm năng về hải sản, khoáng sản, dịch vụ nghề cá, du lịch
… Tôi lại liên tưởng đến tiềm năng của biển đảo Trường Sa khi được khai thác đầy
đủ trong tương lai …
01 giờ sáng ngày 15-4-2009,ngày thứ tư của chuyến hải
trình trên biển, con tàu lại nhổ neo đi trong đêm khi mọi người đã chìm vào giấc
ngủ . Đến khi mọi người thức dậy thì cũng là lúc đảo Nam Yết đã hiện ra trước mắt
.Sau bữa ăn sáng, những chiếc ca-nô từ trên tàu lại được cẩu xuống biển để đưa
mọi người lên đảo .
Khác với đảo Đá Lớn, đảo Nam Yết được che phủ bởi những
tán cây xanh râm mát . Chỉ có những loại cây đặc biệt mới sống và phát triển được
ở những nơi có khí hậu và thời tiết khắc nghiệt như ở đây . Đó là cây phong ba,
cây bão táp, cây bàng vuông . . .gọi là cây bàng vuông vì nó cũng là cây bàng
nhưng có trái hình vuông. Có lẽ đó là những cây chỉ có ở Trường Sa .
Những con đường trên đảo được tráng xi măng rất sạch đẹp,
khang trang nằm khuất dưới những tàn cây râm mát . Bất chợt, tôi lại nhớ đến cù
lao Thạnh Hội, cù lao Bạch Đằng ở quê nhà .
Khi mọi người đặt chân lên đảo khoảng 20 phút, bỗng có
tiếng kẻng báo động vang lên, những người lính đảo nhanh chóng chạy vào vị trí
chiến đấu . Ban đầu, tôi nghĩ đây chỉ là một buổi diễn tập thông thường, nhưng
ngay sau đó chúng tôi nghe thấy tiếng động cơ máy bay, tiếp đến là một chiếc máy
bay tầm thấp bay ngang qua đảo không rõ của nước nào . Ở đây, tinh thần cảnh giác
của những người chiến sĩ được đặt lên hàng đầu; từng ngày, từng giờ phải luôn
trong tư thế sẵn sàng đối phó với những âm mưu xâm phạm chủ quyền biển đảo của
các thế lực bên ngoài .Vị trí của đảo Nam Yết đối với quần đảo Trường Sa mang tính
chiến lược, vì nó nằm cạnh những hòn đảo của nước ta bị nước ngoài chiếm đóng
trái phép. Tôi càng thấm thía với khẩu hiệu của những người lính đảo Trường Sa
: thao trường là chiến trường .
Buổi chiều cùng ngày, đoàn đến đảo Sinh Tồn, cách đảo
Nam Yết khoảng 9 hải lý. Nếu chỉ tính phần nổi thì diện tích của đảo Sinh Tồn
chỉ khoảng 4 héc-ta, nhưng tiềm năng tương lai nơi đây có thể mở rộng diện tích
lên gấp 4-5 lần. Đảo Sinh Tồn là một trong những đảo thực hiện chủ trương dân sự
hoá, hành chính hoá các xã đảo thuộc huyện đảo Trường Sa . Ở đây có trụ sở Uỷ
ban nhân dân xã, có trường học và khu dân cư . Dân cư ở đây được chính quyền xây
dựng cho những ngôi nhà thật khang trang với đầy đủ các tiện nghi sinh hoạt và
giải trí . Mỗi hộ dân đều được cấp phương tiện và ngư cụ để đánh bắt hải sản, cũng
như được cấp con giống, cây giống để chăn nuôi và gieo trồng nhằm cải thiện bữa
ăn gia đình .
Dưới tán lá xanh tươi của những cây bàng vuông, tôi còn
nhìn thấy màu xanh của những giàn bầu, giàn mướp, những luống rau xanh ; những tiếng
gà gáy, tiếng chó sủa râm ran trên đảo . . . là những nét rất quen thuộc của làng
xã, thôn xóm, mặc dù xã đảo nằm cách đất liền hàng trăm hải lý về phía cực Đông
của Tổ quốc .
Tàu neo lại nghỉ đêm trên biển, gần đảo Sinh Tồn . Đến
5 giờ 30 sáng ngày 16-4-2009 thì nhổ neo lên đường đến đảo Len-Đao . Đảo Len-Đao
cũng nằm trong cụm đảo Sinh Tồn và cách đảo Sinh Tồn khoảng 9 hải lý. Từ Len-Đao
có thể nhìn thấy đảo Sinh Tồn bằng mắt thường . Tôi đã gặp Chỉ huy trưởng của đảo
: Thượng uý Tô Ngọc Tuấn . Anh ra công tác ở đảo tính đến nay đã được ba năm .
Vợ anh, chị Phạm Thị Kiều Hoa, hiện đang giảng dạy tại một trường THCS thuộc Thị
trấn Hồ Xá, Vĩnh Linh, Quãng Trị . Từ ngày anh về phép lần trước đến nay, chị
Kiều Hoa đã có mang và sinh được một cháu gái vừa tròn 2 tháng tuổi, nhưng anh
vẫn chưa có dịp về thăm, chỉ thăm hỏi nhau qua điện thoại .
Thế mới biết, ngoài sự chịu đựng với nắng hanh, gió muối,
với bão táp, phong ba, những người lính đảo còn có những sự hy sinh thầm lặng
không gì có thể đong đếm được, đó là hy sinh hạnh phúc của mình để mang đến sự
bình yên, niềm vui và hạnh phúc cho mọi người . Tôi lại liên tưởng đến những lời
ca trong một ca khúc của nhạc sĩ Trần Long Ẩn :
Ai cũng chọn
việc nhẹ nhàng
Gian khổ sẽ dành phần ai
Ai cũng một thời trẻ trai,
Cũng thường nghĩ về đời mình
Phải đâu may nhờ rủi chịu
Phải đâu trong đục cũng đành . . .
Tại vùng biển này, đoàn công tác đã làm
Lễ tưởng niệm các liệt sĩ hy sinh trên quần đảo Trường Sa . Đích thân Chuẩn đô đốc
Trần Đình Xuyên, Phó Tư lệnh quân chủng Hải quân đã đọc bài phát biểu để tưởng
nhớ đến 64 cán bộ, chiến sĩ của ta đã hy sinh anh dũng tại vùng biển này vào ngày
14/3/1988 . Buổi lễ tưởng niệm đã diễn ra ngắn gọn, nhưng trang nghiêm và xúc động,
khói hương bay nhạt nhoè những đôi mắt đỏ hoe khi nghĩ về những người lính đảo đã
hy sinh anh dũng mà đến nay có người hài cốt vẫn còn nằm im giữa lòng biển đảo
xa xôi, chưa có điều kiện mang về ấp ủ trong lòng đất mẹ .
Sau lễ tưởng niệm, con tàu lại tiếp tục
nhổ neo lên đường . Tàu sẽ chạy từ bây giờ đến suốt đêm nay mới đến được đảo Trường
Sa Lớn, thị trấn trung tâm của huyện đảo Trường Sa .
Đúng 6 giờ sáng ngày 17-4-2009, tàu mới
đến được đảo Trường Sa Lớn . Đây là nơi duy nhất trong các đảo mà tàu có thể neo
đậu ngay tại cầu cảng để mọi người lên đảo, không cần phải dùng ca-nô. Ấn tượng
đầu tiên khi bước chân lên đảo là bức tường bờ kè được xây dựng bao bọc quanh đảo
một cách vững chắc và khang trang . Dọc theo bờ kè là hàng trụ điện chạy bằng
quạt gió cao sừng sững đang quay vùn vụt . Đã có 10 quạt gió như vậy được lắp đặt
tại đây, mỗi trụ cung cấp nguồn điện 3,5kw . Ngoài ra, còn có 95 trụ đèn thắp sáng
bằng năng lượng mặt trời cũng đã được lắp đặt và bố trí tại khắp các con đường
trên đảo . Tại nhà các hộ dân, tiếng nhạc phát ra từ các dàn âm thanh hifi, từ
ti-vi, đầu đĩa . . . làm cho không khí sinh hoạt của cư dân trên đảo trở nên nhộn
nhịp hẳn lên . Đảo Trường Sa ngày càng phát
triển và đổi mới để tương lai sẽ trở thành một thành phố nổi rực sáng giữa biển
Đông .
Rời đảo Trường Sa Lớn, đoàn tiếp tục lên
đường đến đảo Đá Lát . Từ Trường Sa Lớn đến Đá Lát khoảng 16 hải lý, nên chỉ
sau hai giờ đồng hồ tàu đã đến nơi . Sóng gió đã bắt đầu mạnh lên sau những ngày
im ắng . Những chiếc ca-nô cặp vào mạn thuyền để đưa người vào đảo giờ đây đã
trở thành những “chú bò tót” bất kham; khi thì nó nhảy dựng lên khỏi mạn tàu,
khi thì nó hụp sâu xuống dưới lòng tàu theo sự dập dềnh của sóng biển . Để bảo đảm
an toàn, ban tổ chức đã giới hạn số người lên đảo, chỉ có đại diện lãnh đạo các
đoàn và cánh phóng viên, nhà báo mới được ưu tiên lên đảo . Đảo Đá Lát vốn là một
đảo chìm, giống như đảo Đá Lớn và đảo Len-Đao . Ngay sát cạnh nơi đóng quân của
cán bộ chiến sĩ trên đảo là tổ trực gác hải đăng, gồm có 5 đồng chí . Hai bên
muốn qua lại nhau phải dùng thuyền . Tuy là bộ phận dân sự, nhưng họ cũng gian
khổ như những người lính đảo, những người làm nhiệm vụ thức đêm soi đường trên
biển, mang đến sự an toàn cho những chuyến hải trình .
Ban tổ chức đã rất khéo léo trong việc
sắp xếp thời gian di chuyển để đoàn đến thăm và làm việc tại các đảo một cách hợp
lý và khoa học nhất . Có khi tàu phải chạy trong suốt cả đêm, có khi tàu phải
nhổ neo lúc 01 giờ sáng . . . sao cho đến sáng ngày hôm sau là tàu có thể đến địa
điểm mới để mọi người kịp lên đảo ngay sau khi ăn sáng . Như hôm nay, sau khi tàu
neo lại nghỉ đêm tại đảo Đá Lát, thuỷ thủ đoàn lại tiếp tục nhổ neo lúc 0 giờ để
đến 6 giờ sáng ngày 18-4-2009, tàu sẽ đến đảo Trường Sa Đông .
Đảo Trường Sa Đông trước kia là một đảo
chìm . Mỗi lần thuỷ triều lên cao thì cả đảo bị nhấn chìm trong nước . Sau khi
cơi nới lên 1,4m , đến nay diện tích phần nổi của đảo đã lên đến hơn 1 héc-ta .
Trên đảo đã trồng được cây xanh che bóng mát và rau xanh để ăn . Ấn tượng đầu
tiên khi bước chân lên đảo Trường Sa Đông là tôi nhìn thấy những ngôi mộ của ba
chiến sĩ công tác và hy sinh ngay tại đảo này. Các anh ra đi khi tuổi đời hãy còn
rất trẻ, đó là : Quách Hoàng Lâm (1984-2006) quê quán Tp.HCM, Vương Viết Mão
(1975-2004) quê quán Nghệ An, Nguyễn văn Thi (1975-2001) quê quán Thanh Hoá .
Không ai bảo ai, mỗi người đều thắp một nén hương thơm, tưởng nhớ đến những liệt
sĩ đã hy sinh và cống hiến trọn vẹn tuổi thanh xuân của mình vì sự bình yên của
Tổ quốc .
Tôi đi men theo bờ cát ven biển, bên cạnh
những cây phong ba, cây bão táp, cây bàng vuông …được trồng rải rác trên đảo, dưới
chân tôi là những thảm muống biển trải dài vỗ về ôm lấy bờ cát nở hoa tím biếc
. Những người lính đảo gọi hoa muống biển là “hoa thuỷ chung”, bởi đó là loài
hoa màu tím có sức sống mãnh liệt . Nắng cũng như mưa, ngày cũng như đêm, mùa
biển lặng cũng như mùa bão tố, hoa muống biển vẫn kiêu hãnh vươn mình trườn trên
sỏi đá, đội cát đâm chồi . Nó là người bạn đồng hành chung thuỷ và chứng kiến
những nhọc nhằn, vất vả, buồn vui, nhung nhớ của những người lính đảo xa quê .
Muống biển ở Trường Sa ngoài việc tô điểm cho đảo thêm xanh, thêm đẹp, nó còn là
loài cây thể hiện khát vọng sống mãnh liệt trước sự khắc nghiệt của nắng mưa,
gió bão . Cũng như những người lính Trường Sa sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn,
gian khổ, hiểm nguy , luôn lạc quan yêu đời và vững vàng tay súng .
11 giờ 30 trưa, đoàn tạm biệt đảo Trường Sa Đông để đến
đảo Đá Tây, cách đó khoảng 9 hải lý. Giống như Đá Lớn, cụm Đá Tây cũng gồm 3 đảo
: Đá Tây A, Đá Tây B và Đá Tây C . Nơi đoàn
đến lúc này là đảo Đá Tây A . Nhìn từ xa, tôi thấy có hai toà nhà sừng sững nối
liền với nhau bằng một cây cầu bê tông trông rất lãng mạn, giống như có một lâu
đài cổ nguy nga mọc ngay trên biển trong những câu chuyện thần tiên . Bên cạnh đảo
có một Trạm Dịch vụ nghề cá được Bộ Thuỷ sản xây dựng . Nếu được đưa vào hoạt động
thì đây sẽ là nơi thu mua hải sản của ngư dân khi đánh bắt xa bờ mà không phải
về đất liền; ngược lại, Trạm sẽ cung cấp xăng dầu, lương thực, trang thiết bị
nghề cá . . .cho ngư dân tiếp tục ra khơi . Tôi nghĩ đến hình ảnh những con tàu
đầy ắp cá trong khoang từ biển trở về và rộn rịp những con tàu từ Đá Tây tiếp tục
ra khơi . . .
5 giờ chiều ngày 19-4-2009, sau khi dùng cơm xong, tàu
lại nhổ neo chạy suốt đêm để đi vào vùng biển Vũng Tàu . Lúc trời vừa rạng sáng,
tàu đi ngang qua bãi Phúc Tần và bãi Huyền Trân, cách Thành phố Vũng Tàu 250 hải
lý về phía đông bắc . Con tàu vẫn lặng lẽ di chuyển trong đêm . . .
Đến với nhà giàn DK1 |
8 giờ sáng ngày 20-4-2009, tàu đến nơi đóng quân của cán
bộ, chiến sĩ của các nhà giàn DK1. Khu vực này có tất cả 19 nhà giàn, nhưng bị gió bão đánh sập mất 4 cái, hiện nay chỉ còn
lại 15 nhà giàn . Đó là nơi đóng quân của những người gác biển, nó được xây dựng
trên một giàn sắt khá kiên cố được chống đỡ bằng 4 chân trụ bê tông cốt sắt .
So với trên đảo thì các cán bộ, chiến sĩ ở nhà giàn có nhiều khó khăn hơn, vì mọi sinh hoạt đều giới hạn trong phạm vi hạn
hẹp của nhà giàn . Vì sóng to, gió lớn nên ban tổ chức chỉ bố trí cho 2 đoàn đến
thăm và làm việc tại 2 nhà giàn DK1/8 và DK1/19 , mỗi đoàn chỉ độ 15 người . Nhưng
chỉ có đoàn đi DK1/8 thì lên giàn một cách
khá suôn sẻ, còn đoàn đi DK1/19 thì không tài nào lên giàn được, mặc dù
ca-nô đến tận chân giàn . Cần nói rõ thêm, khi đi lên đảo, nếu gặp sóng to, gió
lớn thì mọi người cũng có thể lên đảo được vì có sự tiếp sức của 2 người đứng dưới
thuyền và 2 người đứng trên cầu xốc nách đỡ lên; còn khi leo lên giàn thì mỗi
người phải tự lực cánh sinh, vì giàn leo chỉ là một cái thang sắt dựng đứng, vừa
đủ cho một người leo lên, nếu không khéo sẽ bị hụt tay rơi xuống biển hoặc bị
ca-nô va đập gãy chân do sóng biển cứ dập dềnh .Người trên giàn và người dưới
thuyền chỉ biết nhìn nhau một cách bất lực, cách nhau chỉ vài bước chân nhưng
không thể nào đến với nhau được . Cuối cùng đoàn phải chấp nhận quay về tàu .
Không cam chịu thất bại, nhằm ghi lại một kỷ niệm đẹp
với các chiến sĩ nhà giàn, các diễn viên của Đoàn Văn công tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu
đã giao lưu qua sóng truyền tin với những ca khúc hát về người lính biển, các
anh cũng đáp lại bằng bài hát Người chiến
sĩ nhà giàn . Cuộc giao lưu tuy ngắn ngủi nhưng chứa đầy những tình cảm ấm áp
giữa những người ở hậu phương với những người chiến sĩ đóng quân nơi đầu sóng
ngọn gió của tuyến đầu Tổ quốc .
Tại vùng biển này, Lễ tưởng niệm các liệt sĩ hy sinh
trên thềm lục địa phía Nam
của Tổ quốc đã được tổ chức ngay tại boong tàu . Qua bài tưởng niệm, mọi người đã
xúc động nghẹn ngào khi nhắc đến những người lính đã hy sinh :
. . . “Đó là hành động cao đẹp của liệt sĩ trung uý Trần
Hữu Quảng, chính trị viên nhà giàn DK1/3 Phúc Tần, khi nhà bị đổ đã cùng đồng đội
bơi nhiều ngày trên biển, trong lúc sóng to gió lớn anh đã nhường phao cá nhân
và miếng lương khô cuối cùng cho người chiến sĩ yếu nhất và đã hy sinh ngày
05/12/1990. Là liệt sĩ đại uý Vũ Quang Chương, chỉ huy trưởng nhà giàn 2A DK1/6
Phúc Nguyên, trước sự hung dữ và tàn khốc của cơn bão số 8 ngày 14/12/1999, anh
đã chỉ huy bộ đội rời giàn xuống tàu để về đất liền an toàn, còn mình và đảng
viên Nguyễn Văn An ở lại thu tài liệu và ôm lá cờ Tổ quốc vào lòng để rời nhà
giàn cuối cùng. Nhưng ác thay, bão, gió đã cướp đi tính mạng của các anh . Là
liệt sĩ chuẩn uý Lê Đức Hồng đã cố gắng đến cùng để giữ liên lạc với đất liền,
khi cơn bão ập tới làm nhà giàn bị sụp đổ, anh chỉ kịp gửi lời chào:“Vĩnh biệt đất liền”để rồi thanh thản ra
đi . . . Còn biết bao hình ảnh hy sinh anh dũng của các đồng chí mà hôm nay chúng
ta chưa nói hết được .”
Sự hy sinh vô bờ bến của những người chiến sĩ đang ngày
đêm giữ vững chủ quyền trên biển đảo của Tổ quốc đã trở thành khúc bi tráng thời
đại, luôn nhắc nhở chúng ta về lý tưởng cao đẹp trong cuộc sống hôm nay .
Sau Lễ tưởng niệm, tàu tiếp tục nhổ neo đi về phía Vũng Tàu. Đến 13 giờ 30, tàu đi
ngang qua mỏ dầu Bạch Hổ - Đại Hùng, ngọn lửa từ ống phun khí đồng hành rực cháy
trên các dàn khoan . Tôi nghĩ đến tiềm năng to lớn của thềm lục địa nước ta,
nghĩ đến mẻ dầu đầu tiên mang thương hiệu Made in ViêtNam từ nhà máy lọc dầu
Dung Quất và nghĩ đến những người lính ngày đêm đang canh giữ biển trời Tổ quốc
.
15 giờ chiều ngày 21-4-2009, tàu cập cảng Cát Lái, kết
thúc chuyến công tác của đoàn cán bộ lãnh đạo các tỉnh đi thăm và làm việc trên
các đảo thuộc huyện đảo Trường Sa .
Một chuyến hải
trình đầy ý nghĩa với nhiều kỷ niệm đẹp khó quên . . .
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét